Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

CẨM NANG NUÔI CHIM BỒ CÂU - PHẦN 1 - TỔNG QUAN




CẨM  NANG NUÔI CHIM BỒ CÂU

Lời mở đầu
Xuất phát từ niềm đam mê nuôi chim bồ câu, Tôi sưu tầm và biên soạn cuốn cẩm nang này với mục đích góp phần phát triển phong trào nuôi chim bồ câu. Do hiểu biết cũng như kinh nghiệm nuôi chim bồ câu còn hạn hẹp nên nội dung trong cuốn cẩm nang này không thể tránh khỏi sai sót, rất mong quý độc giả lượng thứ.
Nội dung của cẩm nang phần lớn được sưu tầm từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau, mặt khác cuốn cẩm nang này không vì mục đích lợi nhuận nên rất mong nhận được sự thông cảm và chia sẻ của các Tác giả nguồn tư liệu mà tôi sử dụng.
Xin chân thành cảm ơn!
                           http://bocaugiaphu.blogspot.com




PHẦN 1: MỞ ĐẦU
GIỚI THIỆU CHIM BỒ CÂU - ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU SINH LÝ - CÁC LOẠI BỒ CÂU
1. TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI CHIM BỒ CÂU TẠI VIỆT NAM.
Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, bên cạnh việc chăn nuôi các động vật nông nghiệp truyền thống, chăn nuôi bồ câu đã được biết đến từ rất lâu. Bồ câu là loài chim khá phổ biến, sống ở hầu hết các thành phố trên thế giới. Tại châu Âu, chúng được xem là dân cư quen thuộc của thành phố du khách và người yêu chim cho ăn hằng ngày nơi công cộng. Còn tại Đông Nam Á, những đàn bồ câu thường có chủ, chúng được nuôi thả vì mục đích làm chim cảnh hoặc để lấy thịt.
Hiện nay, ở một số tỉnh thành như: Bình Dương, Đồng Nai, Bắc Giang, Hải Dương...đã hình thành rất nhiều trang trại nuôi chim bồ câu công nghiệp với quy mô lớn, có trang trại có quy mô tới hàng vạn con. Ngoài ra, còn có các hộ gia đình chăn nuôi với quy mô vài trăm con theo dạng quần thể hoặc dạng nuôi thả tự nhiên.
Tuy nhiên, sức tiêu thụ chim bồ câu thịt chỉ mới tập trung ở các đô thị lớn như: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng...Các trang trại vệ tinh cung cấp nguồn hàng cho các đô thị lớn này còn hiệu quả, còn lại phần lớn vẫn chỉ với mục đích tăng thu nhập hoặc cải thiện bữa ăn cho gia đình do chim bồ câu thịt nếu so với các loại gia cầm khác giá thành vẫn còn cao.
Bồ câu đã lấy thành phố làm nhà, chúng thích ở đây và sinh sản rất nhanh, dù cho nhà chức trách có tán thành hay không. Bồ câu là một mắt xích quý trong thế giới tự nhiên của sự sống. Môi trường sống nhân tạo của bồ câu minh chứng cho tình thương mà con người dành cho chúng. Để thấy rõ điều này, chúng ta hãy cùng lần lại quá khứ- thời mà bồ câu chưa có trong thành phố- để nhận ra điều kỳ thú đã sảy ra như thế nào.
Tổ tiên của bồ câu nhà và bồ câu hoang sống trong thành thị hiện nay là con Columba livia (Rock Dove hay Rock Pigeon). Việt Nam gọi chúng bằng một cái tên rất hoang dã là Gầm Ghì Đá, có bộ lông chính màu xám xanh với 2 vằn ở cánh rộng, màu đen. Gầm Ghì Đá có ở Ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan và Đông Nam Á. Có tài liệu thì nói Gầm Ghì Đá có ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Trung và Nam Á. Rất tiếc là chúng ta không có thông tin, tài liệu về nơi mà Gầm Ghì Đá đã từng sống hoang dã tại nước ta.
Gầm Ghì Đá sống hoang dã ở vách đá, lèn đá, hốc đá cheo leo. Chúng đã bị bắt, thuần hóa để lấy thịt, rồi dần dà được gây giống làm chim cảnh và bồ câu đua. Những con bị xổng đã kết bầy và sinh sôi thành các quần thể trong đô thị; chúng chọn các hốc cao trên các toà nhà để làm tổ- y hệt như tổ tiên của chúng đã chọn những hốc đá cheo leo để làm tổ nhằm tránh kẻ thù ăn thịt!
Cùng với chim sẻ, bồ câu là loài chim sinh sản rất nhanh và gắn bó thân thiết với thành phố nhất. Nhiều bầy chim lưu trú và làm tổ ở các cao ốc, rồi bay đi kiếm ăn ở các vùng quê lân cận. Bồ câu là loài ăn hạt, ngày xưa tổ tiên chúng tìm ăn ngũ cốc rơi vãi trên cánh đồng, san phơi, đường đi¼, nhưng giờ đây, chúng chấp nhận cả bánh mì và những thức ăn khác của con người.
Chim bồ câu đua.
Hiện nay, bồ câu có bộ lông như Gầm Ghì Đá được nuôi rất nhiều ở Đài Loan để làm chim bay đua. Các tay nuôi nhà nghề rất rành xem tướng, mắt, cánh và đuôi bồ câu để tuyển chọn chim đua. Chúng được nuôi với chế độ dinh dưỡng đặc biệt và được huấn luyện bay đua trên không phận quanh trại nhà bằng hiệu lệnh còi. Thật đáng ngạc nhiên là người ta có thể dùng còi để thúc chúng tăng tốc và dùng ống nhòm để quan sát - chỉ con nào bay nhanh mới được chọn để thi đua. Nhờ vào tập tính kỳ diệu là biết tìm về chỗ ở nên bồ câu được sử dụng để bay đua. Bồ câu thường bay kiếm ăn xa vài chục km, nhưng các con bay đua có thể tìm đường về từ những khoảng cách hằng trăm hay thậm chí hằng ngàn dặm không khó khăn gì. Những cuộc thi bồ câu đua tại Đài Loan rất chuyên nghiệp và có quy mô lớn. Người ta dùng tàu lớn như tàu chở container, nhưng trên đó, người ta đặt rất nhiều chuồng sắt khổng lồ, nhốt những "thí sinh" bay thi để đưa chúng ra khơi. Rồi từ khoảng cách xa bờ hằng trăm dặm, chúng được thả đồng loạt để bắt đầu cuộc bay đua vào bờ. Mỗi chủ nuôi chờ đợi chim bay về chuồng để tháo lấy mã số đã được đăng ký thi và tức tốc mang đến trung tâm trọng tài để ghi nhận giờ. Thấy cảnh thắp thỏm chờ chim, khi vui sướng cũng như khi thất vọng của các " khổ chủ " mà thấy tội nghiệp. Một khi phát hiện bằng ống nhòm có con nào bay về hướng mình, họ dùng còi thúc gọi, hướng dẫn chim về bãi đáp quen thuộc, rồi dùng cây sào dài lùa chim vào chuồng. Có một số con không chịu rời tàu, hoặc kiệt sức, gục ngã giữa đường và rơi xuống biển.
Ở Việt Nam, phát triển phong trào nuôi chim đua mạnh nhất là thành phố Hồ Chí Minh sau đó đến Hà Nội và Hải Phòng. Tại các thành phố lớn này đã hình thành nên các giải đua và các cơ sở nuôi chim đua (thường gọi là Căn cứ) mang tính chuyên nghiệp. Giống chim đua tại Việt Nam chủ yếu là giống chim Thái và chim Bắc Hải, có một số căn cứ đã nhập giống chim thuần chủng từ một số quốc gia phát triển phong trào đua chim tại Châu Âu như: Hà Lan, Pháp, Bỉ hoặc từ Trung Quốc, Đài Loan. Các chim giống ngoại nhập này có giá thành tương đối đắt (hàng chục triệu đồng).






Ảnh: Bồ câu đua
Chim bồ câu cảnh.
Chim bồ câu cảnh có các loài như: bồ câu Xòe, bồ câu Thổi kèn, bồ câu Bông cúc, bồ câu gà Banh, Bồ câu Sư tử...được nhập từ Hà Lan, Bỉ, Ý hoặc từ Trung Quốc.
Bồ câu Thổi kèn:


Bồ câu Xòe:



Bồ câu Vảy cá:


Bồ câu Gà banh:

Bồ câu Khủng Long:



Trí nhớ của bồ câu
Chim bồ câu có thể nhớ tới 1.000 bức ảnh Các chuyên gia tại Viện Nghiên cứu thần kinh Mediterranean, Viện Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (Pháp) cho hai con chim bồ câu xem hàng nghìn bức ảnh. Sau một vài tháng, họ cho chúng xem lại và huấn luyện chúng cách dùng mỏ để vẽ vòng tròn hoặc dấu gạch chéo lên những ảnh mà chúng từng nhìn thấy. Thử nghiệm được lặp lại nhiều lần trong những tháng sau đó. Kết quả cho thấy, số lượng ảnh mà 2 con chim có thể nhớ dao động từ 800 tới 1.000 chiếc. Vì vậy, bạn đừng ngạc nhiên khi lũ chim bồ câu ở nơi bạn sống luôn thả phân vào đúng một chiếc ôtô khi chúng rời tổ bay đi kiếm ăn, bất kể chiếc xe đó nằm ở vị trí nào trong bãi đỗ. Đơn giản là vì hình ảnh chiếc xe đã in sâu vào bộ não của chúng. Khả năng ghi nhớ tuyệt vời của bồ câu cũng là lý do loài chim này được con người huấn luyện để đưa thư.
Bồ câu đưa thư
Người Ai Cập cổ đã nắm bắt được khả năng đưa thư của loài chim bồ câu, vào thời bấy giờ, khả năng kỳ diệu ấy của loài chim này vẫn là một điều bí mật. Khả năng phi thường của "sứ giả hòa bình" vừa được một nhóm nhà khoa học người Anh khám phá. Thật ngạc nhiên là bồ câu đưa thư đơn giản chỉ lần theo các tuyến đường, giống như con người chúng ta vậy.Các nghiên cứu trước đây khẳng định rằng chim bồ câu có khả năng bắt chước và ghi nhớ rất tốt, nhưng cơ chế tạo ra những khả năng ấy vẫn là một ẩn số. Một giả thiết được nhiều người chấp nhận cho rằng quá trình tiến hóa được thúc đẩy bởi khả năng ghi nhớ dài hạn, cho phép động vật nhớ những sự kiện đặc biệt ở thế giới bên ngoài và có những hành vi phù hợp với sự kiện ấy. Do đó, để có thể sinh tồn, khả năng ghi nhớ dài hạn ở động vật ngày càng được hoàn thiện. Bằng cách nào mà những chú chim tìm thấy đường về nhà khi bay khỏi thành phố với chặng đường dài hàng ngàn dặm? Có giả thuyết cho rằng, chúng đã dựa vào khả năng khứu giác như một chiếc đồng hồ hay la bàn của chúng. Để chứng minh thêm khả năng tìm đường về nhà của những chú chim bồ câu khác, các nhà khoa học đã tiến hành vô số các thí nghiệm khác nhau, kể cả việc cắt đi dây thần kinh khứu giác của chúng. Khi một dây thần kinh bị cắt đứt, loài bồ câu sẽ không đủ khả năng để tìm hướng về. Những nhà khoa học đã thừa nhận khả năng tìm hướng bay bằng khứu giác của bồ câu.
Tuy nhiên, thí nghiệm vẫn không rõ ràng, liệu bồ câu có đánh hơi khi hành trình bay trên bầu trời hay không? Họ cũng đã dùng 2 la bàn từ tính y học đặt gần cơ quan khứu giác và trong đôi mắt của chúng. Những vật dụng này có thể giúp chúng tính toán được phạm vi từ trường của trái đất.
Một số loài động vật khác cũng thường sử dụng các loại công cụ để định vị hướng hay vạch ra lộ trình chuyến đi của chúng: loài gà cũng có một "la bàn khứu giác"; loài chim họa mi thì phụ thuộc vào ánh sáng mặt trời, các ngôi sao và những góc độ của ánh sáng được biết như tia sáng phân cực. Trong hành trình du ngoạn hằng năm tới Mexico, loài bướm Monarch cũng sử dụng đường ánh sáng phân cực.
Động vật biển thường sử dụng mốc định vị và tín hiệu thị giác trên mặt biển để tìm thấy đường đi. Loài cá voi thường phân biệt vị trí địa lý bằng âm thanh, loài cá mập và rùa biển cũng sử dụng điện trường để tìm vị trí và đánh dấu đường đi. Trong khi đó, loài cá mập sống ở mực nước cạn ngang qua vùng xích đạo bờ biển Ấn Độ Dương lại có thể nhìn trời đêm để định vị. Phải chăng bồ câu có được khả năng đặc biệt đó là nhờ cơ quan khứu giác. Thật ra, toàn bộ những giả thuyết đó quá rắc rối, trong khi chim bồ câu thường dựa vào môi trường tự nhiên thân thuộc và những cột mốc ranh giới nhân tạo để nhận biết vùng lãnh thổ gần nhà. Các nhà khoa học Anh đã chỉ ra rằng: những con chim sẽ bay theo đường nhỏ, tới đường quốc lộ, bay ngang qua những con phố và bay theo đường vòng, thậm chí điều này sẽ khiến chuyến bay của chúng tăng lên một vài dặm hải lý. Một nghiên cứu gần đây nhận định: loài chim bồ câu nắm bắt rất hiệu quả những con đường khi chúng bay có đôi. Nếu có bạn đồng hành, chúng sẽ đủ thông minh để làm con đường ngắn lại hơn là khi bay một mình. Sau 10 năm nghiên cứu chim bồ câu đưa thư thông qua hệ thống định vị toàn cầu (GPS), nhóm chuyên gia làm việc tại Đại học Oxford đã vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng "các bưu tá viên" không hề tìm đường đến địa chỉ người nhận thư bằng cách định hướng theo mặt trời. Chúng bay dọc theo đường lớn, chuyển hướng ở các giao lộ, thậm chí vòng theo bùng binh!
Khám phá mới được đăng tải trên tờ Daily Telegraph. Khi trả lời phỏng vấn, GS. Tim Guilford cho biết: "Việc này thực sự khiến nhóm nghiên cứu ngã người... Thật ấn tượng khi chứng kiến những con chim bồ đưa thư bay theo tuyến đường phụ Oxford A34, rồi bay vòng vèo tại trạm đèn giao thông trước khi lượn theo bùng binh".
Theo Guilford, chim bồ câu có thể tự tìm đường khi thực hiện các cuộc hành trình dài, ngay cả lần đầu tiên "làm nhiệm vụ". Khi bay nhiều lần trên cùng một tuyến đường, chúng thường nghỉ ngơi ở một chỗ quen thuộc trên đường đi.
Chim bồ câu trong huyền thoại
Chim bồ câu là biểu tượng của hoà bình, nguồn gốc như sau:
Trong Kinh Thánh có đoạn như thế này: "Thượng đế Jehova tạo ra đàn ông là Adam, rồi lại lấy một cái xương sườn của Adam tạo ra phụ nữ- bà Eva, từ đó con cháu của họ sinh sôi nảy nở và làm ăn sinh sống rất hưng thịnh. Nhưng trong nhân loại lại sản sinh ra những kẻ tham lam hưởng lạc, không nghĩ tới chuyện lao động, vì thế mới nảy sinh những tội lừa bịp, hủ hoá và bạo lực, nền tảng đạo đức của nhân loại bắt đầu bị hủy hoại. Thượng đế nổi giận, quyết định dùng nạn hồng thuỷ để huỷ diệt thế giới này.
Cháu đời thứ chín của Adam là Noe, có tộc trưởng của tộc Hebrơ là một người hết sức trung thành với Thượng Đế. Ông chủ trương giữ trọn chính nghĩa, căm ghét sâu sắc các điều ác trong loài người. Thượng Đế chỉ thương người này nên không nỡ để ông ta chết. Một hôm Thượng Đế bảo Noe rằng mặt đất sắp bị hồng thuỷ nhấn chìm. Noe phải lập tức làm một con thuyền hình vuông có ba tầng để tránh nạn. Noe tuân theo lời căn dặn của Thượng Đế, làm xong chiếc thuyền hình vuông, đưa tất cả mọi người trong gia đình cùng với gia súc, gia cầm trong nhà đưa lên thuyền.
Trận hồng thuỷ kéo dài 150 ngày, ngập chìm tất cả núi cao và nhà cửa, làm chết tất cả loài người, chỉ riêng có gia đình Noe là vô sự. Đến khi nước sắp sửa rút, Noe quyết định thả con chim bồ câu cho nó đi thám thính, nhưng con chim chỉ lượn hết một vòng rồi bay về. Noe biết rằng khắp các nơi vẫn còn là nước, cho nên con chim không có chỗ nào để đậu. Vài ngày sau, Noe lại thả chim bồ câu. Lúc con bồ câu trở về, trên mỏ nó ngậm nhánh trám mầu xanh, Noe nhìn thấy thế hết sức sung sướng, vì ông hiểu rằng nước lụt đã rút, để lộ ra những nhánh cây non nhô lên khỏi mặt nước, thế là ông đưa tất cả gia đình trở về lục địa, bắt đầu xây dựng một cuộc sống mới".
Chuyện con chim bồ câu và nhánh trám báo trước cuộc sống hoà bình và an lành đã theo Kinh Thánh mà được phổ biến ra toàn thế giới. Đến những năm 30 thế kỷ XVII, ở châu Âu nổ ra một cuộc chiến tranh kéo dài hơn 30 năm trời, làm cho châu Âu, đặc biệt là nhân dân Đức chìm trong đau thương trầm trọng. Thời bấy giờ, tại một số thành thị ở nước Đức, lưu hành một thứ khăn kỷ niệm, trên vẽ hình con chim bồ câu ngậm một nhành trám, phản ánh nguyện vọng mong chờ hoà bình của nhân dân, vì thế con chim bồ câu và nhánh trám đã tượng trưng cho hoà bình.
Sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, nhà hoạ sỹ lớn Picasso đã vẽ một con chim bồ câu trắng đang bay, gửi tặng Đại hội Hoà bình toàn thế giới, người ta gọi con chim bồ câu này là Chim bồ câu hoà bình.
Đó là câu chuyện trong Kinh Thánh, còn trong Kinh Phật có đoạn thế này:
Đức Phật kể rằng: thuở xưa, lúc nhà vua Dòng Bra-ma-na ngự trị tại Bra-ma-na-thi, Đức Phật Như Lai là một con bồ câu sống an vui với cha mẹ, họ hàng trong một cánh rừng nhiều trái ngon nước ngọt. Mỗi ngày, khi vừng thái dương ló dạng, họ hàng nhà bồ câu đều thức giấc, ra khỏi ổ ấm, xòe cánh rỉa lông, líu lo ca hát, rồi tung bay từng đoàn đi kiếm ăn. Ðến trưa, trời nóng bức, kẻ chui vào những lùm lá tươi mát mẻ ẩn mình, con xuống suối nô đùa trong dòng nước lạnh. Chiều đến, trước sau, các đoàn lần lượt trở về tổ, chờ đêm đến là gác mỏ lên cửa, thưởng ngoạn những hột ngọc lóng lánh trên nền trời xanh.
Nhưng bất hạnh thay cho giống bồ câu! Trong xứ có một anh chàng chuyên nghề đặt bẫy chim, hắn trát lên cành cây có trái chín một chất nhựa oái ăm, con chim nào dẫm lên đấy là chân bị dính chặt, dù có cố đập đến gãy đôi cánh cũng không thế nào thoát nạn. Hớn hở, anh chàng độc ác leo lên bắt từng con mang về, bỏ vào lồng sơn vẽ rất đẹp, nuôi dưỡng như con cưng, đợi đến khi thân tròn thịt béo, anh mang ra chợ bán với giá rất đắt.
Họ hàng bồ câu nhà ta rất biết cái mánh khóe bất lương của chàng đặt bẫy, thường bảo nhau phải cẩn thận trong khi vào rừng kiếm trái. Nhưng một hôm, quá mê chơi đuổi bắt, ta lại dẫm lên chất nhựa chết người. Vừa cảm nhận được cái sự dính chặt của nhựa, ta biết ngay là nguy to đã đến, đạp chân trái xuống để rút chân phải lên, không ngờ, cả 2 chân đều dính chặt... Thôi rồi! Thôi ròi!... Còn đâu cảnh đoàn tụ, còn đâu cuộc đời êm ấm trong bầu trời tự do... Ta cất tiếng thảm sầu kêu to. Cha mẹ, họ hàng vừa bay đến là bóng chàng đặt bẫy lù lù hiện ra dưới gốc cây. Vù một cái, bao nhiêu người thân yêu đều bay đi tứ tán, để mình ta trong tuyệt vọng và sợ hãi. Anh chàng thợ bẫy từ từ leo lên, gỡ ta ra khỏi nhựa, ta vùng vẫy muốn bay, nhưng than ôi! Sức con bồ câu non đâu bì được với bàn tay của kẻ lục lâm! Thôi đành cho số kiếp! Ta được bỏ vào một cái lồng tre, trong đó đã có đôi bà con xa đồng phận.
Chàng thợ bẫy, thấy trời đã gần trưa, quảy lồng ra về. Ðến nhà, hắn bắt từng chú câu, bỏ vào một cái lồng lưới lớn. Quả như những câu chuyện ta đã nghe từ trước, trong chốn ngục tù, không thiếu một thức ăn đồ uống nào, lại còn cửa sơn, phòng rộng, kể ra phong lưu không biết gấp mấy lần những cái ổ tranh chốn quê nhà. Nhưng ta biết rồi, tham những cái của này là có ngày bị đem ra chợ bán, rồi sau đó sẽ nếm cảnh "chảo sôi dầu bỏng" để thành chim rán mà thôi, rồi sẽ xương tan thịt nát cùng với rượu và gia vị trên bàn nhắm¼.
Ta lập tâm tuyệt thực cho mình gầy cong queo, ta quyết bỏ ăn, không hề động đến những hạt thóc no tròn của chủ nhà đặt cạnh bên¼ cùng sơn hào hải vị. Một hôm, hai hôm, ba hôm ¼ ta vẫn nén lòng chịu đói. Ðến sáng ngày thứ tư, anh chàng đến thăm. Thấy ta tiều tụy, hắn có vẻ lấy làm lạ. Nhẹ mở cửa lồng, anh bắt ta ra và nhẹ nhàng đặt ta lên lòng bàn tay, đưa lên ngang mắt để xem vì cớ gì mà ta xanh xao vàng úa. Thấy vậy, ta càng vật vờ, ẻo lả¼ chàng không còn nghi kỵ gì nữa, để ta đứng run rẩy trên đôi chân yếu ớt. Hắn biết đâu rằng lâu nay ta chỉ đợi chờ có phút giây này¼. Khi hắn vừa quay đầu vì có tiếng động sau lưng, ta gồng mình, dồn hết sức tàn lực kiệt, tung đôi cánh, vọt lên trời cao, hít mạnh khí trời, dang đôi cánh, bay thẳng về với núi rừng bao la, để lại tất cả sự ngạc nhiên và nỗi ân hận cho kẻ thợ săn "ác độc". Nói đến đây, Ðức Phật thố lộ: "Chàng đặt bẫy kia, chính là Ðề Bà Ðạt Ða ngày nay vậy".
Trong văn học, thi ca¼ bồ câu là hiện thân của tình bạn chân thành và vẻ đẹp thánh thiện mà kẻ khác phải mơ ước, thể hiện qua 2 tuyệt tác của đại văn hào La Phonten và A. Tolstoy . Chuyện thứ nhất, bồ câu và kiến, kể rằng, một hôm, sau trận mưa to, trong rừng nọ, có một chú kiến đang bị nước lũ cuốn trôi trên dòng suối chảy xiết. Một chú chim bồ câu nhìn thấy, thương bạn, bồ câu vội vàng thả một cành cây nhỏ xuống suối để kiến bám vào, nhờ đó mà thoát chết. Đến hôm khác, kiến đang đi kiếm ăn thì thấy một người đi săn đang dương cung nhằm bồ câu đang ung dung rỉa lông trên cành cây để bắn. Kiến vội vàng lao đến, trèo lên chân người đi săn và cắn cho hắn một miếng. Bị đau bất ngờ, người đi săn giật mình, đánh rơi cung xuống đất, nhờ vậy, chim thức tỉnh mà bay thoát. Chuyện thứ hai, bồ câu và quạ, kể rằng, có một con quạ đen nhìn thấy bồ câu trắng rất xinh đẹp, lại được mọi người yêu mến, nó bèn quét vôi lên khắp mình rồi chui vào tổ bồ câu. Thấy chim trắng chui vào, họ nhà bồ câu không ai phát hiện ra, nhưng khi hỏi chuyện, quạ cất lên tiếng nói khàn khàn đáng gét, làm lộ chân tướng của kẻ gian. Cả nhà bồ câu vác gậy, đánh cho quạ một trận, khiến nó phải vội vàng tẩu thoát khỏi nhà chim. Nhưng đáng thương thay, khi về đến nhà, họ nhà quạ lại không nhận ra nó vì có màu lông lạ, kiên quyết không cho vào¼ Thật đáng đời cho kẻ không biết mình là ai!
"Mặt trái" của bồ câu
Chim bồ câu là tòng phạm của tù nhân:
Thứ tư, ngày 1/2/2009, người phát ngôn của hệ thống nhà tù liên bang Brasin, ông Rosana Alberto cho biết: "Những người trông coi nhà tù đã tìm thấy những chú chim bồ câu bên ngoài nhà tù Danilo Pinheiro. Mỗi con chim bồ câu mang một túi nhỏ đựng một chiếc điện thoại di động và bộ nạp pin. Chúng bị bắt liên tiếp trong 2 ngày, thứ 4 và thứ 6". Dùng những chú chim bồ câu để lén đưa hàng lậu vào trong tù là hiệu quả nhất. Đây là một hình thức vận chuyển mà những kẻ phạm tội liên kết với nhau nhằm trốn các bộ luật ngăn cấm trong các nhà tù ở Brazil.
Những tổ chức tội phạm như "Red Commando" ở Rio de Janeiro hoặc "First Commando of the Capital" ở Sao Paulo được thiết lập một cách có hệ thống trong các nhà tù. Mạng lưới này còn được cung cấp rộng rãi đến những nhà tù khác nhau.
Trong quá khứ, những tội phạm kiểu này đã sử dụng với các tòng phạm khác nhau, luật sư đến trông coi phạm nhân để lén đưa ma tuý, vũ khí và điện thoại di động nhằm khống chế cảnh sát.
Bắt chim bồ câu gián điệp
Lực lượng an ninh Iran đã bắt được 2 con bồ câu gián điệp gần lò phản ứng hạt nhân ở Natanz, nơi đã lắp đặt phần lớn các máy ly tâm để làm giàu urani. Theo báo chí Iran cho biết, 1 trong 2 con bồ câu bị bắt gần nhà máy bí mật, làm sạch nước ở Kashan (tỉnh Isfagan). Theo khẳng định của nguồn tin, con chim được cặp những vòng kim loại màu xanh dương, còn thân nó có gắn những sợi dây trong. Trên con chim thứ 2, bị bắt hồi đầu tháng cũng có gắn những thiết bị tương tự.
Trong năm 2007, Teheran đã nhiều lần buộc tội các cường quốc phương Tây, trước hết là Mỹ, về ý đồ hoạt động gián điệp ở Iran.
Những con chim gián điệp đã từng được sử dụng từ thời Thế chiến I. Còn vào thời hiện đại những vụ tương tự cũng được ghi nhận ở nhiều thời điểm khác nhau. Tháng 6/2003, ở Pentagon người ta đã tiến hành cuộc điều tra một con bồ câu dường như tình cờ bay tới đó. Con chim đã không gặp cản trở nào khi bay được tới tầng 4 của tòa nhà và sà vào hành lang nơi đặt Bộ chỉ huy Không quân Mỹ, ngay trên phòng làm việc của Bộ trưởng Donald Rumsfeld. Do sự cố này, các nhân viên bảo tàng gián điệp quốc tế ở Washington đã phải nhắc nhở ngay các quan chức quân đội là trong lịch sử, những con chim như thế đã được sử dụng tích cực trong thời kỳ Thế chiến I để thu thập thông tin bí mật về vị trí các công trình chiến lược của đối phương.
Vào năm 2004, tại Anh người ta đã công bố tài liệu của các cơ quan mật vụ nước này có liên quan đến hoạt động của họ trong thời gian Thế chiến II và những năm sau chiến tranh. Trong đó có kế hoạch tung vào Liên Xô những đàn chim bồ câu cảm tử đeo chất nổ, hay vũ khí sinh học: những chất nhiễm khuẩn để gây dịch bệnh than (nhiệt thán). Tổ chức này đã bị đóng cửa vào năm 1950.
Chim bồ câu bị bỏ tù
Một chú chim bồ câu đã phải ngồi nhà đá sau khi bị phát hiện vận chuyển ma túy vào trại giam ở Bosnia. Chủ của chim bồ câu phạm tội chính là một trong các tù nhân ở nhà tù Zenica vốn được canh phòng cực kỳ nghiêm ngặt này. Quản lý trại giam cho hay họ nhận thấy bốn tù nhân có dấu hiệu "phê thuốc" ngay sau khi chim bồ câu đậu trên cửa sổ phòng giam. Xét nghiệm ma túy đối với chủ nhân chú chim cùng ba bạn tù sau đó đã cho kết quả dương tính.
Được biết những chiếc túi nhỏ xíu chứa heroin đã được gắn chặt vào chân bồ câu. Trưởng trại giam Josip Pojavnik cho biết: "Chúng tôi nghi ngờ con chim đã mang ma túy từ Tuzla, thị trấn cách nhà tù 40 dặm đường."
Hiện tại, chú chim này đang bị giam giữ trong lúc cảnh sát tiến hành điều tra. "Chúng tôi không biết phải làm gì với con chim bồ câu này." Pojavnik thổ lộ."Nhưng bây giờ, nó vẫn phải ngồi sau song sắt."
Trong lịch sử người ta từng biết có các bản án được đưa ra với chim. Vào năm 1963, ở Tripoli, 75 con chim đưa thư bị tuyên án tử hình - bọn buôn lậu đã huấn luyện chúng để chuyển tiền từ Hy Lạp, Italia và Ai Cập qua biên giới Libi. Còn người khi đó chỉ bị phạt.
Chim bồ câu gây ô nhiễm thành phố
Nếu phải chọn một loài vật làm biểu tượng cho thế giới động vật, nó sẽ là chim bồ câu. Bồ câu hoang dã, còn được gọi là chim thành phố hoặc chim tình yêu, phổ biến ở khắp nơi, từ những ngôi làng nhỏ bé xa xôi đến những thủ đô sầm uất nhất. Tại đó, chúng có thể sống thoải mái trên ban công, nóc nhà, các tượng đài, cầu cống, bên cạnh việc miễn phí nhà ở, chúng còn được cung cấp nhiều thức ăn và nước uống.
 Loài chim này đã mang lại cho nhân loại cảm giác thanh bình, trong chiến tranh, chúng là những bưu tá đưa thư thông minh và nhanh nhẹn nhất. Tuy nhiên, trong vài thập kỷ qua, bên cạnh nhiều điều lãng mạn, thân thiết¼ chính loài chim này cũng đã gây nên một số phiền hà. Tại một số thành phố, nhà chức trách xem bồ câu là vấn nạn. Bồ câu bị cáo buộc là phân của chúng làm ô uế vỉa hè và lối đi, làm nhơ nhuốc và mục rữa các công trình kiến trúc, làm dơ bẩn hệ thống thoát hiểm và các bệ cửa sổ. Thêm vào đó còn là khả năng truyền dịch bệnh cúm gia cầm ¼. Ngoài ra, vào thời điểm sắp đẻ, chim mái có thể mổ ăn vữa kiến trúc để có chất can xi cho sự hình thành vỏ trứng, đặc biệt là tốc độ gia tăng đàn quá lớn: đến 6 lần/năm ¼
Sắc lệnh cấm cho chim bồ câu ăn ở Venice
Giống nhiều thành phố lớn có nhiều chim bồ câu khác như New York và London, chính quyền thành phố Venice của Italia từ lâu đã lưu tâm đến những mối nguy mà chim bồ câu có thể gây ra cho sức khoẻ con người, chưa kể những thiệt hại mà phân chim gây ra. Những nỗ lực trước đây trong việc cắt giảm số lượng chim, như giăng lưới hay dùng thiết bị điện để phát hiện chỗ chim đậu, đều không mấy thành công.
Điều khiến tình hình gần đây trở nên đặc biệt nghiêm trọng, chính là số lượng khách du lịch tăng lên, ước tính khoảng 20 triệu lượt/năm, khiến lượng tiêu thụ thức ăn nuôi chim và lượng phân thải cũng tăng theo, số chim bồ câu ở đây tăng lên và gây thiệt hại đáng kể cho các công trình lịch sử trên quảng trường. Ông Sergio Lafisca, chuyên gia y tế của thành phố, ước tính hiện có khoảng 130.000 con chim bồ câu đang cư trú tại khu vực Quảng trường St. Mark, gấp khoảng 40 lần con số mà các nghiên cứu quốc tế đã đưa ra về mật độ lý tưởng cho mỗi km vuông. "Bản thân những con chim rất dễ thương, nhưng chúng cũng ẩn chứa mối nguy," ông Lafisca nói. Kết quả kiểm tra trên các con chim cho thấy mỗi con mang ít nhất là một mầm bệnh, nên các chuyên gia y tế có cơ sở để lo ngại.
Các đài kỷ niệm trên quảng trường là nơi phải "gánh" hậu quả từ lũ chim, với số lượng ngày một tăng. Chim bồ câu thường không ngủ ở nơi chúng ăn, nhưng việc chúng được cho ăn 24/7/, Quảng trường St. Mark nghiễm nhiên bị biến thành nơi trú ngụ quanh năm cho chúng, kết quả là bề mặt của những bức tượng đầy các vết xước do móng chim cào vào khi đi tìm chỗ bám để ngủ.
Chim bồ câu, cũng như gà, tìm thức ăn chứa canxi cácbonat để hình thành vỏ trứng. Chúng mổ đá cẩm thạch và tường vữa của những bức tượng và tường nhà, để lại lỗ chỗ nhiều vết mổ của chim. Việc này tiêu tốn 16-23 euro/năm cho mỗi con chim bồ câu để tân trang lại những chỗ bị chim mổ, và đây là tiền thuế của người dân.
Tất cả những điều trên khiến chính quyền thành phố Venice đi đến quyết định cấm cho chim bồ câu ăn để giảm số lượng chim. Giới chức thành phố đang thuyết phục những người bán hàng rong chuyển sang nghề khác, với sự giới thiệu và giúp đỡ của chính quyền, hoặc đồng ý nhận tiền bồi thường.
Khi các quan chức chính quyền thành phố Venice lần đầu tiên bỏ phiếu để thông qua quy định cấm cho chim bồ câu ăn cách đây 11 năm, khu vực Quảng trường St. Mark đã được miễn trừ, vì hình ảnh khách du lịch cho chim bồ câu ăn đã trở thành một biểu tượng của nơi này. Tuy nhiên, sau hơn một thập kỷ, cuối cùng lệnh cấm cũng áp dụng cho cả quảng trường này, vì đây là cách hiệu quả nhất để giảm số lượng chim. Kể từ khi sắc lệnh của thành phố chính thức có hiệu lực, ngày 1/5/2007, cảnh sát địa phương chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở những khách du lịch vẫn cho chim bồ câu ăn, chứ chưa áp dụng biện pháp cứng rắn.
Làm sập cầu vĩnh cửu ở Mỹ
Chim bồ câu là nguyên nhân chính dẫn đến thảm hoạ trong vụ sập cây cầu bắc qua sông Mississipi, bang Minnesota, đã 40 năm tuổi, hôm 2/8/2007 làm 13 người chết và hàng trăm người bị thương. Đây là vụ sập cầu kinh hoàng nhất của Mỹ trong vài chục năm qua. Các chuyên gia cầu đường cho biết, các rầm cây cầu này đã nhanh chóng bị hư hại sau một thời gian sử dụng.
Sau một thời gian điều tra, nghiên cứu, các nhà khoa học Hoa Kỳ đã giải thích cho nguyên nhân của sự cố kinh hoàng này có nguồn gốc chính là từ các chú bồ câu "ngây thơ". Chất thải của hàng ngàn, hàng vạn chú chim bồ câu là nguyên nhân chính dẫn tới sự xuống cấp của các thanh rầm.
Trong phân chim bồ câu có chứa một lượng lớn amoniac và các axit. Khi tích ụ, sau một tthời gian dài, các chất này kết hợp với nước đã làm các thanh rầm bị hoen gỉ nhanh chóng. Nhà hoá học Neal Langerman, thuộc Trung tâm hoá học cộng đồng của Mỹ nói: "Amoniac và axit trong phân chim bồ câu khi kết hợp với nước đã tạo nên một dung dịch điện hoá có tác dụng ăn mòn kim loại. Do đó, các thanh rầm bằng sắt sẽ bị yếu đi nhanh hơn bình thường".
Cư dân trong vùng cho biết, cây cầu bị sập là nơi trú ngụ của hàng ngàn con chim bồ câu. Lớp phân chim bồ câu trên các thanh rầm cầu có nơi dày hàng gang tay. Ngay từ những năm 80 của thế kỷ trước, các nhà khoa học đã cảnh báo về nguy cơ sập có thể xảy ra với cây cầu nếu tiếp tục để đàn him bồ câu sống tại đây.
Năm 1996, chính quyền sở tại đã tiến hành việc xua đuổi, không cho chim bồ câu làm tổ bên dưới cây cầu theo lời khuyên của các chuyên gia. Tuy nhiên, việc làm này không thể ngăn cản được hàng ngày có hàng ngàn con chim bồ câu tự do tới kiếm ăn và xả chất thải lên các thanh rầm của cây cầu.
Thịt chim bồ câu
Chim bồ câu có đến trên 300 loài, phân bố rộng rãi trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Chim được ăn thịt phổ biến nhất là khi chúng ra ràng (tên tiếng Anh là squab). Trong thuật ngữ ẩm thực, chim ra ràng là thịt bồ câu khoảng một tháng tuổi; nó đã đạt tới kích cỡ gần trưởng thành nhưng chưa đầy đặn. Trong quá khứ, chim ra ràng hoặc chim bồ câu các loại nói chung đã được tiêu thụ tại nhiều quốc gia văn minh cổ đại, bao gồm Ai Cập, Ý và Mediver¼ Thời đó, người ta đã săn bắn chim bồ câu làm thức ăn cung cấp protein có giá rẻ. Thịt chim câu già hoang dã thì rất dai, do đó phải hầm thật lâu mới ăn được. Chim ra ràng rất dễ bắt để làm thịt khi chúng còn non, chưa đủ lông để bay khỏi tổ, cũng vào thời gian đó đã có một số nông dân nuôi chim sinh sản để sản xuất ra chim non ăn thịt.
Gần đây, chim ra ràng được sản xuất hoàn toàn từ các trang trại rất lớn ở nhiều quốc gia thuộc khu vực Bắc Phi, Trung đông, một số nước châu Âu, nhiều nước Bắc Mỹ¼, trong đó, người ta chăn nuôi các giống chim thịt. Ở Hoa Kỳ, có trại nuôi đến 35 000 đôi chim. Ở Ai Cập, nuôi từ 3000 - 5000 đôi chim bồ câu là quy mô tương đối phổ biến trong cả nước mà tác giả cuốn sách này đã có may mắn được tiếp cận với nhiều trang trại như thế. Bồ câu đua và làm cảnh ít thì được dùng để ăn thịt.
Chim ra ràng thường được xem là món ăn tao nhã, thịt chúng rất mềm, hương vị thơm ngon hơn các giống gia cầm thông thườngt. Ngày nay, chim ra ràng là món ăn quen thuộc ở nhiều quốc gia: Pháp, Mỹ, Ý, và một số nước châu Á. Món ăn tiêu biểu bao gồm: thịt ngực rán (ở Pháp), ở Ai Cập, người ta hầm với gạo và thảo mộc, ở Ma Rốc phổ biến là chim bồ câu chiên. Người Trung Quốc hầm thuốc bắc, rán, nấu miến và nấu cháo¼
Trong một số nước phát triển, thịt chim câu được xem như món ăn lạ, không được ưa thích vì chúng gắn liền với hình ảnh của chim câu hoang dã trong thành phố. Tuy vậy, chim ra ràng từ các trang trại chăn nuôi lớn vẫn là một phần quan trọng trong các thực đơn ở nhiều nhà hàng như Le Cirque, French Laundry... Do đó, chúng thường được bán với giá cao hơn nhiều so với những gia cầm khác, đôi khi đến 17 USD /kg. Trong ẩm thực của người Trung Quốc, chim ra ràng là một phần không thể thiếu của các bữa tiệc sang trọng, trong các dịp lễ, tết. Hiện nay, phần lớn chim ra ràng nuôi ở Mỹ được bán tại các phố của người Hoa (Chinatowns).
Chương 1
NGUỒN GỐC, GIẢI PHẪU SINH LÝ CỦA CHIM BỒ CÂU
1.1. NGUỒN GỐC BỒ CÂU.
1.1.1. Nguồn gốc bồ câu
Bồ câu thuộc nhóm chim bay (Carinatae), gồm 25 bộ, trong đó có Bộ bồ câu (Columbiformes) gồm những loài chim đi chậm nhưng bay rất khoẻ như bồ câu, cu gáy. Gốc mỏ mềm, chúng ăn quả và hạt là chính. Đặc điểm nổi bật của bồ câu là chim non nở ra chưa có lông, chưa mở mắt và rất yếu.
Darwin chứng minh rằng tất cả các giống bồ câu nhà hiện này đều có nguồn gốc từ bồ câu rừng Columbia livia, hiện nay còn thấy ở vùng Địa Trung Hải, châu Á, châu Phi. Bồ câu sống thành từng cặp, con cái đẻ 2 trứng, thời gian ấp nở từ 17-21 ngày.
Bồ câu là tên gọi chung của một gia đình chim, có nhiều giống có kích thước lớn, nhỏ khác nhau. Trong đời sống hoang dã, chúng lai tạp lẫn nhau, sống đông đúc ở những vùng ấm áp.
Một loài được biết nhiều nhất sống hoang dã hay còn gọi là chim bồ câu sống lang thang, tổ tiên của nó sống ở châu Âu và châu Á, được gọi là "chim bồ câu đá", dài khoảng 33 cm, phía trên mình màu xanh xám, với những chấm đen ở cánh và phía đuôi (phao câu) màu hơi trắng; phía dưới là màu hơi đỏ tía ở phần ngực và xanh phớt ở bụng. Xung quanh cổ, đặc biệt là ở con đực, óng ánh nhiều màu sắc.
Hơn 200 giống chim bồ câu nhà (cũng như chim câu rừng) bắt nguồn từ "chim bồ câu đá" (pigeon des roches), còn có tên gọi khác là chim bồ câu bipel (Columbus livia). Sau đây là một vài giống chính:
Chim bồ câu Mondain: khối lượng chim trống 800gam, chim mái 750gam, chim bồ câu con "ra ràng" 1 tháng tuổi nặng 500 gam; là giống đẻ sai, cho từ 8 tới 10 cặp chim bồ câu con trong một năm.
Chim bồ câu Carneau: có màu lông đỏ, nhẹ cân hơn loài trên nhưng đẻ nhiều hơn. Từ các đặc điểm riêng biệt này, nên người chăn nuôi đã cho lai giống này với giống chim bồ câu Mondain.
Chim bồ câu La-mã: là giống nặng cân nhất trong các loại chim bồ câu. Con trống trưởng thành nặng tới 1 300 gam; đẻ ít; một cặp bố mẹ cho khoảng 6 cặp chim con / năm.
1.2. ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẤU, SINH LÝ
Tổ tiên của chim nuôi là các loài chim hoang dại, tiến hoá lên từ lớp bò sát nên chúng còn mang rất nhiều đặc điểm của lớp động vật này. Mặt khác, cũng là một loại vật nuôi, nhưng những đặc điểm giải phẫu, sinh lý của chim nuôi khác rất xa so với gia súc và có liên quan rất chặt chẽ với các hoạt động chăn nuôi của con người. Xin được nhắc lại, các đặc điểm quan trọng nhất của lớp chim là hai chi trước đã biến thành cánh, thân có lông vũ che phủ, phổi có mang ống khí và hệ thống túi khí, hô hấp kép; tim 4 ngăn, hàm có vỏ bọc sừng, thân nhiệt cao và ổn định, đẻ trứng to, có vỏ đá vôi, trứng được nở nhờ quá trình ấp của bố mẹ
Để chăn nuôi chim đạt hiệu quả cao, người chăn nuôi cần hiểu biết thật sâu sắc về các đặc điểm này, vì suy cho cùng, chăn nuôi chính là sự đáp ứng đầy đủ nhất các nhu cầu sinh lý về tiểu khí hậu chuồng nuôi và dinh dưỡng của vật nuôi, nhằm phát huy tối đa tiềm năng năng suất của chúng.
1.2.1. Da và sản phẩm của da
Da của chim bao phủ toàn thân và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc trao đổi nhiệt giữa cơ thể với môi trường, nhất là ở chim non. Da gồm 2 phần chính, lớp biểu bì với lớp tế bào hình trụ cùng với lớp mô liên kết mỏng và sợi collagen tạo thành lớp da ngoài bền chắc, nghèo mạch máu và hầu như không có tuyến ngoại tiết. Dưới lớp biểu bì là lớp mô liên kết mỏng gần giống như mô mỡ, có chứa nhiều mạch máu và dây thần kinh. Đặc điểm lớn nhất của da chim là mỏng, nghèo các tuyến dưới da, không có tuyến mồ hôi. Người ta cho rằng, cùng với việc phát triển của lớp da, khả năng điều chỉnh nhiệt của nó dần dần thay đổi, cho phép cơ thể chim thích nghi với sự thay đổi nhiệt độ của môi trường xung quanh. Trong những ngày đầu tiên sau khi nở, việc thải nhiệt xảy ra trên toàn bộ bề mặt da. Khi đó thân nhiệt của chim con khoảng 38,7 - 38,9oC. Việc giữ nhiệt kém của bộ lông tơ đã làm hạn chế khả năng thích nghi của cơ thể chim non với những thay đổi đột ngột về nhiệt độ môi trường, vì vậy khi nuôi chim non, việc giữ nhiệt độ thích hợp là quan trọng nhất.
Trong những tuần tuổi đầu tiên đã xảy ra việc thay lông tơ bằng lông non đồng thời với việc phát triển các nang lông và tạo nên các nếp nhăn của da. Trong thời kỳ tiếp theo đến 150 ngày tuổi, lớp lông non được thay bằng lông trưởng thành có khả năng cách nhiệt rất tốt. Nhiệt độ bên trong cơ thể trong thời kỳ này là 40,6 41,0oC. Trong giai đoạn này, những biến đổi nhiệt ở môi trường bên ngoài ít ảnh hưởng hơn đến cơ thể chim (A. G. Xviridjuc).
Cần lưu ý là thân nhiệt của chim rất cao so với động vật có vú (40 - 41oC), toàn thân (trừ mỏ và chân) của chim được che phủ bởi một lớp lông vũ dày. Tuyến mồ hôi (một tuyến có vai trò to lớn trong việc thải nhiệt của cơ thể khi quá nóng) lại không có ở chim, do đó, việc thải nhiệt của cơ thể trong điều kiện thời tiết nóng là cực kỳ khó khăn. Trong chăn nuôi cần hết sức chú ý đến đặc điểm này để thiết kế chuồng trại, tạo tiểu khí hậu chuồng nuôi thích hợp, có độ thông thoáng cao, mát mẻ và thông khí tốt.
Tuyến phao câu (tuyến sáp) là tuyến duy nhất có ở biểu mô của chim, nằm ở vùng đốt sống đuôi, tuyến này có 2 thuỳ hình ô van, chất tiết của chúng là chất nhờn, thành phần gồm nước, protein, lipit, axit nucleic, lexitin. Khi mới tiết ra, chất tiết ở dạng dầu nhờn, đặc quánh, sau một thời gian ngắn, chúng biến thành dạng sáp, có tác dụng làm cho bộ lông nhờn, sáng bóng và mềm mại, không thấm nước, nhất là ở thuỷ cầm. Sự hoạt động của tuyến phao câu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lượng mỡ trong thức ăn, nước uống. Sự hiểu biết về vai trò của tuyến phao câu cho đến nay vẫn chưa đầy đủ. Nếu cắt bỏ tuyến phao câu ở con trống, nó sẽ trở nên giảm tính hăng và mất các phản xạ sinh dục thứ cấp.
Sản phẩm của da
a. Bộ lông
Lông phân bố không đều trên bề mặt cơ thể chim non cũng như trưởng thành, chiếm tỷ lệ 4-9 % khối lượng cơ thể và chứa 82% protein. Những chim non vừa nở được phủ lông tơ, gốc của lông tơ gắn vào thân của lớp lông đầu tiên, phía ngoài xoà ra, phủ đều trên bề mặt của da. Sau 2-3 tuần tuổi, thân lông đầu tiên mọc từ túi lông, thay thế lông tơ. Việc hình thành bộ lông đầu tiên của chim non ở các loài và giống khác nhau thì khác nhau và được hoàn thiện ở những tuần tuổi khác nhau. Người ta phân biệt các loại lông theo cấu trúc và chức năng của chúng: lông ống, lông nệm (lông bông), lông chỉ, lông chổi và lông tơ.
Lông ống có số lượng nhiều nhất, đó là lông cánh, lông đuôi và lông bao phủ trên thân, chúng nằm xếp lớp lên nhau và tạo thành bộ lông bên ngoài. Về cấu tạo, loại lông này chỉ có 1 trục, 2 phiến lông đối xứng 2 bên và có nhiều móc lông để móc vào nhau tạo thành phiến. Cùng với lông nệm nằm dưới, nó tạo nên lớp lông cách nhiệt, bao phủ hầu như toàn thân. Tuỳ thuộc vào nơi mọc mà người ta gọi tên của chúng: lông cổ, gáy, lưng, vai, diều, ngực, bụng, cánh....
Ở cánh có 3 loại lông ống: lớn, trung bình và nhỏ. Lông cánh dài và chắc, làm thành quạt lông chắn gió, lông vũ hàng thứ nhất ở vùng ngón thứ 2 và thứ 3; chim có 10 - 12 chiếc. Lông vũ hàng thứ hai (11 - 12 chiếc) dính tới mặt ngoài của xương cánh tay và có hình quạt đều rộng, 3 - 4 lông dính tới ngón thứ nhất của cánh tạo nên lông cánh nhỏ, có ý nghĩa rất quan trọng khi bay lên và hạ cánh, chống lại sự tạo thành dốc thẳng của các dòng không khí phía trước.
Lông đuôi (10 - 12) nằm theo hàng ngang, mọc tới 4 - 6 đốt sống đuôi cuối cùng. Lông đuôi có thân lông cứng và phiến lông thẳng.
Lông bông có trục ngắn, phiến lông trên đầu trục là một búi mềm không định hướng. Người ta phân biệt lông bông phủ toàn thân ở chim non và trưởng thành. Số lượng lông bông không giống nhau ở các loài và giống chim. Lông bông phát triển mạnh ở vùng bụng của chim.
          
Hình 1.1. Cấu tạo hình thể chim (theo Craig Robson, 2005)
Tất cả lông bao và lông tơ tạo thành bộ lông nhỏ của chim, lông cánh và lông đuôi tạo nên bộ lông lớn. Lông chỉ hay là lông hình sợi rất giống như lông mao của gia súc nhưng rất mảnh. Những lông này mọc thành từng nhóm nhỏ (từ 2 đến 10 chiếc) xung quanh lông vũ. Có thể quan sát loại lông này rất rõ sau khi chim đã được vặt lông rồi cho tiếp xúc với nền nhà trong vòng 3-5 phút, khi đó, chúng sẽ mọc rất nhanh và nhiều. Chức năng của lông này hiện chưa được giải thích rõ.
Lông chổi (giống hình chổi quét sơn) mọc xung quanh lỗ thoát chất tiết của tuyến phao câu (tuyến sáp), có thân tương đối dài và mỏng, ở đầu có một chùm tơ.
Lông tơ chỉ có một thân mỏng, không có phiến lông, mọc chủ yếu ở gốc mỏ, thỉnh thoảng ở ngón chân, trên mắt (lông mi).
Lông bao của các loài và giống chim khác nhau thì khác nhau, chúng tạo nên đặc trưng về hình dạng bên ngoài của chim. Lông chim thực hiện những chức năng khác nhau: bảo vệ cơ thể khỏi những ảnh hưởng xấu của môi trường (lạnh, ẩm...), điều hoà nhiệt và xúc giác. Một số lông chuyên dùng để bay, một số khác là dấu hiệu sinh dục thứ cấp của chim.
Màu sắc lông chim gắn chặt với sự có mặt của những sắc tố melanin và lipocrom. ở trong lông, sắc tố có hình hạt hay hình gậy. Melanin được tạo nên trong ti lạp thể của tế bào sinh trưởng biểu mô melaniphor. Tiền sắc tố melanin là melanogen. Sự oxy hoá melanogennâu hung, nâu, đen.
Màu lông rực rỡ của một số giống chim được tạo bởi sắc tố khác - lipocrom. Nó thuộc nhóm sắc tố carotenoit. Lipocrom hoà tan trong mỡ và có nguồn gốc ngoại sinh. Chúng làm cho lông có màu màu vàng, đỏ, xanh da trời hoặc xanh lá cây. Mỗi cá thể có thể có một màu hoặc nhiều màu.
Nếu không có sắc tố thì lông màu trắng, đó là chim bạch tạng, thường thấy ở chim bồ câu trắng. Màu sắc của lông có vai trò rất lớn trong chăn nuôi. Đó là các tính trạng bên ngoài rất quan trọng, được sử dụng trong công tác chọn giống. Màu sắc, độ bóng mượt của lông liên quan chặt chẽ với tình trạng dinh dưỡng, sức khoẻ, sức sản xuất của chim, khi khoẻ mạnh, khẩu phần cân đối... thì bộ lông đẹp; ngược lại, dinh dưỡng kém, ốm yếu thì bộ lông xơ xác, dễ gãy, dễ rụng.  
Hình 1.2. Một số lông chim bồ câu
Hocmon tuyến giáp trạng tham gia điều khiển quá trình mọc lông bình thường ở chim. Sau khi cắt bỏ tuyến này thì sự khác biệt về màu sắc lông giảm đi hoặc mất hoàn toàn.
b. Sinh lý thay lông
Thay lông là sự thay đổi thường kỳ của lông và thành phần cấu trúc biểu bì của da. Đối với chim hoang dã, sự thay lông có tính mùa vụ, thường là bắt đầu vào mùa thu, khi di chuyển chỗ ở hoặc lúc bắt đầu mùa đông giá lạnh. Vì vậy thay lông là sự thích nghi sinh học của chim với việc thay đổi điều kiện sống. Chim đã được thuần hoá đã nhận được tính di truyền này từ tổ tiên của chúng.
Người ta phân biệt thay lông của chim non (thay lông non) và thay lông thường kỳ (hàng năm) của chim trưởng thành, trùng với mùa nhất định. Chim cầm có thể thay toàn bộ hay một phần của bộ lông. Khi thay lông, trong cơ thể chim xảy ra những thay đổi về hoạt động của hệ thần kinh về cơ quan nội tiết, đồng thời diễn ra quá trình tăng cường trao đổi chất, chủ yếu là trao đổi protein và muối khoáng, cơ thể rất mất cân bằng, giảm sức đề kháng với bệnh tật, dễ ốm, chim trưởng thành giảm nhanh hoặc ngừng đẻ trứng.
Quá trình thay lông liên quan chặt chẽ với sức đẻ trứng của chim. ở những chim mái thay lông sớm, sức đẻ trứng trong năm sẽ thấp, còn ở những con thay lông muộn sẽ có sức đẻ trứng cao hơn. Rút ngắn chu kỳ thay lông của chim sinh sản sẽ làm tăng sức đẻ của chúng. ở những chim mái thay lông nhanh, sản lượng trứng được hồi phục trong thời gian ngắn, đây là một trong những tính trạng để chọn giống.
Những thay đổi mạnh của thức ăn và điều kiện nuôi dưỡng, các tác nhân strees (nhiệt độ, độ ẩm cao, thấp; bệnh tật...) đều có thể gây nên hiện tượng thay lông trước thời hạn.
Ở chim non, cơ thể thay lớp lông đầu tiên bằng lớp lông cơ bản (lớp thứ hai), quá trình này kết thúc khi khối lượng cơ thể đã cơ bản hoàn thành và bắt đầu thành thục sinh dục. Thời điểm bắt đầu và số ngày thay lông non của chim ở các dòng, giống khác nhau thì khác nhau, bắt đầu từ 1,5 tháng tuổi và kết thúc hoàn toàn lúc bắt đầu đẻ trứng. Việc thay lông ở chim trống xảy ra mạnh mẽ hơn ở chim mái. Thay lông cánh xảy ra cùng lúc với việc thay các lông khác.
Thay lông cánh ở chim bắt đầu theo hướng từ trong ra ngoài. Lông cánh của chim con có 7 lông ống hàng thứ nhất và tám lông hàng thứ hai. Tiếp theo mọc 3 lông hàng thứ nhất còn lại, trong khi đó thay lông hàng thứ nhất bắt đầu từ những lông cuối (8 - 10) chưa mọc hết. Trong thời gian này xuất hiện những lông vũ chưa đủ dài của hàng thứ hai. Việc thay chúng xảy ra theo hướng ngược lại - từ ngoài vào giữa cánh.
Thay lông của chim trưởng thành được nhắc lại mỗi năm một lần trong đời và thường diễn ra vào một mùa cố định trong năm, khi thời gian chiếu sáng thay đổi: từ ngày dài chuyển sang ngày ngắn, thường gặp vào cuối mùa hè và mùa thu, thỉnh thoảng vào mùa đông.
Sự thay lông vĩnh viễn ở chim thường diễn ra tuần tự từ lông móc cổ, lưng, sau đó đến những phần khác, đồng thời thay cả lông cánh. Lông cánh của hàng thứ nhất rụng kế tiếp nhau bắt đầu từ chiếc thứ nhất đến chiếc thứ 10. Mỗi chiếc lông cánh được thay tương đương với sự thay 10% bộ lông của cơ thể. Chiếc lông đầu tiên được thay vào đầu thời kỳ thay lông, chiếc thứ năm vào thời kỳ giữa, chiếc lông thứ 10 sẽ rụng vào cuối kỳ thay lông. Theo số lượng những chiếc lông cánh đã được thay, ta có thể xác định mức độ thay lông của chim.
Quá trình thay lông có thể khác nhau. Việc thay lông chậm thường gặp ở chim đẻ nuôi lồng trong điều kiện tiểu khí hậu được điều chỉnh ổn định. Lông của chúng rụng dần dần, việc đẻ trứng không bị gián đoạn. Khi thay lông nhanh, chim có thể thay một lúc vài chiếc lông cánh và xuất hiện những khoảng da trần trên cơ thể.
Cơ chế thay lông của chim chưa được nghiên cứu đầy đủ. Sự xuất hiện của mùa thay lông liên quan chủ yếu tới độ dài ngày chiếu sáng. Ánh sáng là tác nhân mạnh kích thích cơ quan thụ cảm thị giác và tác dụng qua vùng dưới đồi thị lên tuyến yên. Tuyến yên tăng cường hoặc giảm bớt sự hình thành các hocmon hướng sinh dục qua máu, tác động lên hoạt động của các tuyến sinh dục, từ đó tác động lên sự thay lông. Việc tăng cường chức năng của tuyến giáp trạng hoặc tiêm hocmon của nó vào cơ thể chim sẽ làm cho cơ thể bắt đầu thay lông. Nếu cấy tuyến giáp trạng vào cơ thể, sau một thời gian ngắn, bắt đầu thay lông mạnh và nhanh, chim rụng hết lông chỉ trong vài ngày.
Vào giai đoạn thay lông của chim, khi mà việc thay lông diễn ra mạnh nhất, hoạt tính chức năng của tuyến giáp trạng và tuyến cận giáp tăng lên thì khối lượng của chim cũng tăng lên một ít (A. K. Đanhilova,1986). Quá trình mọc và hình thành lông ở chim liên quan chặt chẽ với việc tăng cường độ trao đổi chất và năng lượng trong cơ thể, tăng tính hấp thu và tiêu hoá thức ăn.
1.2.2. Hệ tuần hoàn và máu
a. Tuần hoàn
Tim đà điểu và chim có 4 ngăn giống như các động vật có vú khác. Do hay phải lấy mẫu máu hoặc viêm ven chođà điểu nên các nhân viên y tế phải được trang bị kỹ kiến thức về phần này.
Tĩnh mạch cổ có một vị trí rất quan trọng. Cũng giống như các loài chim khác, tĩnh mạch cổ bên phải của đà điểu to hơn nhiều so với bên trái, kích thước và vị trí của tĩnh mạch cổ bên trái có thể thay đổi. Ở một số con đà điểu, tĩnh mạch cổ bên trái nối với tĩnh mạch cổ bên phải, còn một số con khác thì nó lại nối với tĩnh mạch chủ ở đầu. Động mạch cảnh chung của đà điểu xuất phát từ vòm động mạch chủ chạy lên cổ, chạy dọc theo đường mép ở phía bụng của xương sống rồi đi xuống khối cơ ở cổ. Khu vực khác có thể lấy máu là các ven ở cánh. Điều nên nhớ là, mặc dù hệ thống tĩnh
mạch ở cánh đà điểu chạy song song với động mạch nhưng cả động mạch và tĩnh mạch ở đà điểu đều khác nhiều so với các loài chim khác. Ví dụ, ở gà thì động mạch cánh sâu và các động mạch phụ nối với nhau hoặc gần như nối khít nhau ở khuỷu cánh. Còn ở đà điểu thì các nhánh của động mạch sâu và động mạch phụ không nối với nhau. Nhờ vị trí và kích thước tiện lợi nên các ven chính ở cánh đà điểu rất phù hợp để tiêm hoặc lấy máu, trong khi tất cả các ven khác thì nằm quá sâu hoặc quá nhỏ. Chỗ tốt nhất để tiêm ven là động mạch cánh, động mạch này chạy qua vùng âu cánh trên tại phần giáp với bụng, lấy ven ở vị trí này không gây tác hại tới bộ phận dễ bị tổn thương khác.
b. Máu
Máu cùng limpho và dịch mô tạo thành môi trường bên trong của cơ thể, có thành phần và tính chất lý - hoá tương đối ổn định, nhờ đó, các điều kiện cần thiết cho hoạt động sống của tế bào và mô được đảm bảo.
Chức năng
Máu thực hiện chức năng vận chuyển, điều tiết dịch thể (bằng hocmon); bảo vệ (bằng bạch cầu, kháng thể...); giữ nhiệt; ổn định áp suất thẩm thấu và độ pH trong cơ thể...
Máu chiếm tỷ lệ 10 - 13% so với khối lượng cơ thể gia chim con, khoảng 8,5 - 9,0% chim trưởng thành. Nếu bị mất nhanh khoảng 1/4 - 1/3 số máu, chim sẽ chết.
Thành phần và tính chất lý học của máu
Thành phần máu phụ thuộc vào trạng thái sinh lý của cơ thể, tuổi, giới tính, điều kiện nuôi dưỡng và các yếu tố khác. Trong máu chim con có 14,4% chất khô, của chim trưởng thành có 15,6 - 19,7%.
Tỷ trọng của máu chim là 1,050 - 1,060. Tỷ trọng máu có thể tăng lên khi máu bị đặc lại và giảm đi khi bị thiếu máu.
Độ nhớt của máu chim trung bình bằng 5 (4,7 - 5,5), nó phụ thuộc vào số lượng hồng cầu, nồng độ protein và muối. Tăng độ nhớt thường gặp khi cơ thể bị mất nước, ví dụ khi bị ỉa chảy hoặc khi tăng số lượng hồng cầu. Khi tăng độ nhớt của máu, huyết áp tăng và giảm sự khuyếch tán nước từ mao quản ra các mô, áp suất thẩm thấu của máu phụ thuộc vào nồng độ các muối tan trong đó, trước hết là muối natri clorua.
Trong máu và dịch mô, áp suất thẩm thấu tạo thành chủ yếu do NaCl, dung dịch 0,9% NaCl, tương ứng với áp suất thẩm thấu máu của động vật có vú được tính là dung dịch sinh lý. Áp suất thẩm thấu của chim bằng dung dịch 0,93% NaCl.
Độ pH: đối với động vật máu nóng, pH máu thường nằm trong khoảng 7,0 - 7,8%; đối với chim là 7,42 - 7,56.
Theo mức kiềm dự trữ trong máu có thể đoán được sức đề kháng của cơ thể, cường độ của các quá trình sinh lý. Sự dao động lượng kiềm dự trữ trong máu phụ thuộc vào sự thay đổi trạng thái sinh lý của cơ thể. Lượng protein trong huyết thanh chim tăng lên theo quá trình sinh trưởng, cao nhất ở thời gian đầu của giai đoạn đẻ trứng.
Tỷ số anbumin/globulin (hệ số protein) phụ thuộc vào lứa tuổi và sức sản xuất của chim. Ngoài protein ra, trong huyết tương còn có các hợp chất nitơ phi protein; ure, axit uric, amoniac, creatin, creatinin, chúng được gọi chung là nitơ cặn, có nồng độ tương đối lớn trong máu chim (44 mg%). Trong máu chim còn có các chất hữu cơ khác: đường, mỡ, và sản phẩm trung gian của quá trình phân giải các chất này. Bột đường gồm glycogen và glucoza. Nồng độ gloucoza ở chim cao hơn ở động vật có vú tới 1,5 - 2 lần.
Hàm lượng glycogen và axit adenozintriphotphoric (ATP) trong máu chim ătng lên theo quá trình phát triển. Ở chim một ngày tuổi, nồng độ của ATP là 2,4 - 4,9 mg%, glycogen 24 - 27mg%; ở 150 ngày tuổi tương ứng là 7,8 - 9,4 và 45 - 52 mg%.
Các loại lipit trong máu tồn tại dưới dạng mỡ trung tính, axit béo, photphatit, cholexterin và các este của cholexterin. Khối lượng mỡ trung tính trong huyết tương chim không quá 0,1 - 0,15%. Ở chim đẻ, hàm lượng lipit lớn hơn ở chim chưa đẻ và chim trống, hàm lượng lipit tăng sau khi rụng trứng. Các hocmon hướng tuyến sinh dục có tác dụng làm tăng lipit trong máu.
Lượng canxi trong máu của chim đẻ lớn hơn so với gia súc. Phần lớn canxi trong máu nằm ở huyết thanh (10 - 12 mg%), phần nhỏ trong hồng cầu. Trong huyết thanh, canxi có 2 dạng: bị khuếch tán (60 - 65%) và không bị khuyếch tán (34 - 40%). Sự phân biệt này liên quan đến khả năng của canxi đi qua màng siêu lọc (các màng tế bào).
Phần lớn canxi bị khuếch tán nằm dưới dạng ion (Ca++) và phần nhỏ (15%) liên kết với các bicacbonat, xitrat và photphat.
Canxi không bị khuếch tán liên kết với protein huyết thanh - anbumin và globulin. Canxi có thể được giải phóng khỏi các liên kết này dưới dạng ion. Lượng canxi không bị khuếch tán trong huyết tương có thể thay đổi phụ thuộc vào hàm lượng protein trong đó, chủ yếu là anbumin.
Hàm lượng ion canxi trong huyết tương và dịch mô tương đối ổn định, phụ thuộc vào lứa tuổi và sức sản xuất của chim, vào lượng canxi trong khẩu phần thức ăn. Ở chim chưa đẻ, trong máu có 9 - 12 mg% canxi. Trong huyết tương chim đẻ có trung bình 20 - 26 mg% canxi. Trong thời gian trứng rụng, khi có tác động của hocmon tuyến yên và buồng trứng, lượng canxi có thể tăng lên tới 35mg%. Sau khi đẻ trứng, lượng canxi trong máu giảm xuống 12 - 15mg%.
Ở chim non, hàm lượng canxi trong máu thay đổi không lớn. Khi trong khẩu phần thức ăn thiếu canxi, hàm lượng canxi trong máu chim con giảm xuống nhanh.
Photpho trong máu chim thường ở dạng các hợp chất hữu cơ và vô cơ. Tỷ lệ giữa hai dạng này là 8: 1 - 10: 1.
Photpho vô cơ hầu hết nằm trong huyết tương và phần lớn ở dạng ion. Hàm lượng photpho vô cơ trong huyết thanh chim thay đổi tương đối lớn, phụ thuộc vào cường độ trao đổi chất và photpho trong thức ăn. Người ta nhận thấy có sự giảm dần nồng độ photpho trước thời kỳ sinh sản.
Photpho hữu cơ gồm photpho lipit, photpho tan trong axit và photpho nucleotit. Ngoài ra, còn có photpho của axit phitin trong hồng cầu có nhân và photpho của ATP.
Gần đến thời kỳ thay lông, hàm lượng photpho giảm xuống nhanh. Trước và trong thời gian đẻ trứng, lượng photpho tổng số trong máu tăng lên.
Cần thận trọng khi dùng các chỉ số nồng độ Ca, P trong máu để đánh giá tình trạng dinh dưỡng các nguyên tố này của chim vì chúng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố và có biên độ dao động rất lớn.
Trong máu chim có nitri clorua, phân ly ra thành cation Na+ và anion Cl-. Cation K+ có một lượng nhỏ trong huyết tương. Nồng độ các ion này trong huyết tương chim cũng tương tự như ở động vật có vú. Ion natri và clo trong huyết tương nhiều hơn, còn ion kali trong hồng cầu nhiều hơn.
Như trên đã nói, các bicacbonat và photphat của natri và kali tham gia vào thành phần các hệ thống đệm của máu, giữ cân bằng axit - kiềm. Việc thải các chất thừa, chủ yếu là NaCl, là do thận, song ở chim cường độ thải ion Na+ qua thận kém hơn so với động vật có vú. Vì vậy, khi lượng muối này quá nhiều, nồng độ natri trong máu tăng lên, dẫn tới rối loạn hô hấp, hạ huyết áp, và co giật... chim bị ngộ độc muối thường chết trong vòng vài phút. Vì vậy, cần hết sức chú ý đến nồng độ NaCl trong thức ăn cho chim, nhất là trong bột cá.
Tạo máu
Thời gian tồn tại trung bình của hồng cầu chim từ 90 - 120 ngày, của bạch cầu từ 5 - 7 ngày. Có loại bạch cầu chỉ sống tất cả có vài giờ. Nhưng bình thường số lượng tế bào máu của chim tương đối ổn định.
Những cơ quan tạo máu gồm: tuỷ xương, lá lách, mô limpho và các thành phần lưới nội mô. Ở giai đoạn bào thai, gan cũng tham gia vào quá trình tạo máu. Ở tuỷ đỏ của lách xảy ra quá trình phân huỷ hồng cầu. Hồng cầu còn phân huỷ cả ở gan. Phân huỷ hồng cầu ở các cơ quan này diễn ra bằng phương pháp thuỷ phân trong các tế bào của hệ lưới nội mô. Khi đó từ huyết sắc tố, sắt được giải phóng ra khỏi tế bào. Một phần sắt được oxi hoá, chuyển vào sắc tố bilirubin, sắc tố này được thải ra khỏi cơ thể cùng với phân và nước tiểu. Phần sắt còn lại tích tụ trong tế bào của các cơ quan tạo máu và có thể dùng để tạo ra các hồng cầu mới.
Ngoài chức năng tạo máu, lách còn giữ vai trò dự trữ máu, nhờ cấu tạo hợp lý của hệ mạch máu tại đây.
1.2.3. Hệ xương - cơ
                                               

        Hình 1.3. Sơ đồ bộ xương chim
1 Xương đầu; 2 Xương cổ; 3 - Cột sống; 4 Xương lưỡi hái; 5 Xương cánh; 6 Xương đùi; 7- Xương cẳng; 8 Xương bàn chân; 9 Xương ngón chân;
Các phần của hệ xương chim tương ứng như các động vật khác. Cánh chim tương ứng với cánh tay và bàn tay ở động vật bậc cao, cẳng chân và ngón chân tương ứng cẳng và ngón chân ở động vật, xương bàn chân của chim là sự nối tiếp và kéo dài ra từ xương chân của động vật.
Hệ xương chim có kết cấu vững chắc, xốp, nhẹ và khoẻ (cứng). Hệ xương bao gồm xương đầu, xương sống, xương ngực, xương sườn và xương chi. Xương đầu chia thành hai loại là xương sọ và xương mặt. Xương sống chia ra xương sống cổ, xương ngực, xương hông (lưng, khum) và xương đuôi. Bộ xương chiếm khối lượng 7-8% khối lượng cơ thể. Số lượng các đốt sống ở các loại gia cầm trên bảng 1.1 .
Xương ngực (xương lưỡi hái) ở chim phát triển mạnh. Phần xương này là nơi bám vào của những cơ có giá trị quí- cơ ngực. Đà điểu không có xương này vì chúng không phải là chim bay mà là chim chạy.
Bộ xương của chim mái còn là nơi dự trữ khoáng để tạo vỏ trứng. Trong những xương dài có nhiều gai xốp trong tuỷ xương. Khi hoạt động sinh dục mạnh, các gai này phát triển và chứa đầy Ca, dự trữ cho quá trình tạo vỏ trứng. Khi thức ăn nghèo Ca, chim mái sẽ huy động đến 40 % Ca từ xương khi đẻ ra 6 quả trứng đầu tiên.
1.2.4. Hệ cơ                                                                                           

 Hình 1.4. Sơ đồ hệ cơ chim
1- Cơ ngực nông; 2- Cơ ngực sâu; 3- Cơ đùi; 4- Cơ cẳng chân
Ở chim, hệ cơ mịn, sợi nhỏ và chắc. Sự phát triển của hệ cơ phụ thuộc vào loài, giống, tuổi của chim. Ở các phần khác nhau của cơ thể chim, hệ cơ phát triển ở mức độ khác nhau.
Cơ ngực phát triển tốt theo sự vận động của cánh và bảo vệ các cơ quan bên trong của ngực và bụng. Cơ ngực có ý nghĩa kinh tế quan trọng trong sản xuất thịt, nó chiếm khoảng 17-22 % khối lượng cơ thể và 40 -50 % tổng lượng cơ trong phần thịt ăn được của chim. Màu sắc cơ của chim là màu đỏ sẫm. Tốc độ chảy của máu qua cơ quy định màu của nó.
Độ lớn của tế bào cơ biến động từ 10-100 mm, chiều dài từ 6-12 cm. Các tế bào cơ chứa 70-75% là nước, 17-19% protein, 1-7% các hợp chất không chứa nitơ, khoảng 1% chất khoáng và 3,9% mỡ.
1.2.5. Hệ Hô hấp
Loài chim có nhu cầu oxy cao hơn rất nhiều so với động vật có vú, do đó chúng có bộ máy hô hấp rất đặc biệt, đảm bảo cường độ trao đổi khí cao trong quá trình hô hấp. Cơ hoành không phát triểm, hai lá phổi nhỏ, đàn hồi kém, lại nằm kẹp vào các xương sườn nên hệ hô hấp được bổ sung thêm hệ thống túi khí. Túi khí có cấu trúc túi kín (giống như bóng bay) có màng mỏng do thành các phế quản chính và phế quản nhánh phình ra mà thành. Theo chức năng, các túi khí được chia thành túi khí hít vào (chứa đầy khí hít vào) và túi khí thở ra (chứa đầy khí thở ra). Chim có 9 túi khí, gồm 4 cặp nằm đối xứng nhau và một túi lẻ.
Các cặp túi hít vào gồm cặp bụng và cặp ngực phía sau. Các túi khí to nhất là những phần tiếp theo của các phế quản chính. Túi bên phải lớn hơn túi bên trái. Cả hai túi có bọc tịt (túi thừa) kéo vào tới xương đùi, xương chậu và xương thắt lưng - xương cùng, có thể nối cả với các xoang của những xương này.
Túi khí ngực sau nằm ở phần sau xoang ngực và kéo dài tới gan. Túi khí ngực trước nằm ở phần bên của xoang ngực, dưới phổi, và kéo dài tới xương sườn cuối cùng.
                                    

Hình 1.5. Sơ đồ bộ máy hô hấp của chim
1- Túi giữa xương đòn; 2 - Lối vào xương vai; 3 - Túi cổ; 4 - Túi ngực trước; 5 -Túi ngực sau; 6- Túi bụng; 7 - Phổi; 8 - Phế quản chính; 9 - Phế quản ngoài của túi bụng; 10 - Phế quản túi ngực sau; 11 - Phế quản túi bụng;
Cặp túi khí cổ kéo dài dọc theo cổ tới đốt sống cổ thứ 3 - 4, nằm trên khí quản và thực quản. Theo đường đi, các túi khí này tạo ra thêm các bọc, toả vào các đốt sống cổ, ngực và xương sườn. Túi khí lẻ giữa xương đòn nối với các túi khí cổ. Nhờ hai ống túi này nối với hai lá phổi và có ba cặp túi thừa, một cặp đi vào hai xương vai, cặp thứ hai đi vào khoảng trống giữa xương quạ và xương sống, cặp thứ ba vào giữa các cơ và vai ngực. Phần giữa lẻ của túi giữa xương đòn nằm giữa xương ngực và tim.
Dung tích tất cả các túi khí lớn hơn thể tích của phổi 10 - 12 lần. Các túi khí còn có vai trò trong việc điều hoà nhiệt của cơ thể, bảo vệ cơ thể khỏi bị quá nóng hoặc quá lạnh. Nếu tách hệ thống túi khí khỏi quá trình hô hấp của chim thì khi cơ làm việc nhiều, thân nhiệt sẽ tăng lên quá mức bình thường.
Nằm giữa các cơ quan bên trong và dưới da, các túi khí đồng thời làm giảm khối lượng cơ thể chim. Thêm nữa, sự phế hoá các xương cũng có ý nghĩa về mặt này.
Chim hô hấp kép, đó là các đặc điểm điển hình của cơ quan hô hấp. Khi hít vào, không khí bên ngoài qua mũi để vào phổi, sau đó vào các túi khí bụng (túi khí hít vào), trong quá trình đó, diễn ra quá trình trao đổi khí lần thứ nhất. Khi thở ra, không khí từ các túi khí bụng và ngực sau, bị ép và đẩy ra qua phổi, trong quá trình đó, diễn ra quá trình trao đổi khí lần thứ hai. Nồng độ khí cacbonic ở không khí thở ra của chim tương đối lớn, từ 4,0-4,2%.
Tần số hô hấp ở chim phụ thuộc vào nhiều yếu tố: loài, giới tính, độ tuổi, khả năng sản xuất, trạng thái sinh lý, điều kiện nuôi dưỡng và môi trường (nhiệt độ, độ ẩm, thành phần khí trong không khí, áp suất khí quyển ...). Tần số hô hấp thay đổi trong ngày và đặc biệt trong các trạng thái bệnh lý khác nhau của cơ thể.
Dung tích thở của phổi chim được bổ sung bằng dung tích các túi khí, cùng với phổi, tạo nên hệ thống hô hấp thống nhất. Dung tích thở của phổi và các túi khí được tính bằng tổng thể tích không khí hô hấp, bổ sung và dự trữ. Thể tích khí bổ sung và dự trữ của chim trong thực tế không đo được. Không xác định được cả thể tích không khí lưu lại.
Trao đổi khí giữa không khí và máu chim bằng phương thức khuyếch tán, quá trình này phụ thuộc vào áp suất riêng phần của các khí có trong không khí và trong máu chim.
Trong khí quyển hoặc trong những chuồng nuôi thông thoáng tốt thường có: oxi 20,94%; CO2 0,03%; nitơ và các khí trơ khác (acgon, heli, neon...) - 79,93%. Trong không khí thở ra của chim có 13,5 - 14,5% oxi và 5 - 6,5% cacbonic.
Trong chăn nuôi chim, việc tạo cho chuồng nuôi có độ thông thoáng lớn, tốc độ gió lưu thông hợp lý nhằm cung cấp khí sạch, loại thải khí độc (CO2 , H2S¼), bụi ra khỏi chuồng, có một ý nghĩa vô cùng to lớn.
1.2.6. Hệ tiêu hoá
Chim có tốc độ trao đổi chất và năng lượng cao hơn so với động vật có vú. Cường độ tiêu hoá mạnh ở chim được xác định bằng tốc độ di chuyển của thức ăn qua ống tiêu hoá. Ở chim non, tốc độ này là 30 - 39 cm trong 1 giờ; ở chim lớn hơn là 32 - 40cm và ở chim trưởng thành là 40 - 42cm. Chiều dài của ống tiêu hoá chim không lớn, thời gian mà khối thức ăn được giữ lại trong đó không vượt quá 2 - 4 giờ, ngắn hơn rất nhiều so với động vật khác, do đó, để quá trình tiêu hoá thức ăn diễn ra thuận lợi và có hiệu quả cao, thức ăn cần phải phù hợp về với tuổi và trạng thái sinh lý, được chế biến thích hợp, đồng thời có hàm lượng xơ ở mức ít nhất.


 Hình 1.6. Sơ đồ hệ tiêu hoá của chim
1 - Thực quản; 2 -Diều; 3 -Dạ dày tuyến; 4 - Dạ dày cơ; 5 - Lá lách; 6 - Túi m ật; 7 - Gan; 8 - ống mật; 9 - Tuyến tuỵ; 10 - Ruột hồi manh tràng; 11 - Ruột non; 12 - Ruột thừa (manh tràng); 13 - Ruột già; 14 - ổ nhớp
a. Tiêu hoá ở miệng
Chim lấy thức ăn bằng mỏ. Hình dáng và độ lớn của mỏ ở các loài gia cầm rất khác nhau. Chim bồ câu, chim cút có mỏ ngắn, nhọn và cứng, hơi cong. Lưỡi gia cầm nằm ở đáy khoang miệng, có hình dạng và kích thước tương ứng với mỏ. Bề mặt phía trên của lưỡi có những gai rất nhỏ hoá sừng hướng về cổ họng, có tác dụng giữ khối thức ăn trong miệng và đẩy chúng về phía thực quản. Các cơ quan thị giác và xúc giác kiểm tra sự tiếp nhận thức ăn. Chim thực hiện mổ và nuốt thức ăn nhờ các động tác nâng lên, hạ xuống linh hoạt của đầu. Số lượng thức ăn mà chim ăn được trong 1 đơn vị thời gian phụ thuộc vào mức độ hấp dẫn của thức ăn, loài và tuổi của chim. Khi đói, nó mổ nhanh và ăn nhiều. Chim tiếp nhận thức ăn lỏng và nước bằng cách nâng đầu rất nhanh rồi ngửa cổ lên để nuốt. Riêng chim bồ câu uống nước bằng cách thả mỏ, hút nước vào nhờ áp lực âm trong xoang miệng.
Việc điều khiển lượng thức ăn ở chim được thực hiện bởi các trung tâm thần kinh của vùng dưới đồi thị. Các trung tâm này bị kích thích hoặc ức chế do ảnh hưởng của các yếu tố ngoại sinh (thành phần và tính chất của thức ăn, tần số và thời gian cho ăn) và nội sinh (mức độ của các quá trình trao đổi chất).
Chim bồ câu thường ăn trực tiếp các loại hạt đỗ, ngũ cốc và rất thích ăn các loại hạt có màu. Khi trộn thức ăn hỗn hợp và các hạt có màu như ngô, đỗ thì bao giờ chim cũng chọn ăn hạt có màu trước. Trong hỗn hợp thức ăn có cám viên, ngô hạt, đỗ xanh thì chim chọn ăn hạt đỗ xanh trước tiên sau đó đến ngô và sau cùng mới đến cám viên.
Khi thức ăn đi trong khoang miệng, nó được thấm ướt nước bọt đẻ dễ nuốt. Các tuyến nước bọt của chim phát triển kém. Động tác nuốt ở chim được thực hiện nhờ chuyển động rất nhanh của lưỡi, khi đó thức ăn được chuyển rất nhanh vào vùng trên của hầu vào thực quản. Thanh quản được nâng lên phía trước và lên trên, lối vào thanh quản bị ép tới đáy của xương dưới lưỡi và gốc lưỡi, ngăn không cho thức ăn rơi vào đường hô hấp. Viên thức ăn thu nhận được ở cuống lưỡi được đẩy vào lỗ thực quản và sau đó, do những co bóp nhu động của thành thực quản, nó được đẩy vào diều. Ở chim đói, thức ăn được đẩy thẳng vào dạ dày, không qua diều. Trong thành thực quản có các tuyến nhầy hình ống, tiết ra chất nhầy, cũng có tác dụng làm ướt và trơn thức ăn khi nuốt.
b. Tiêu hoá ở diều và "sữa diều" của bồ câu
Ở chim chim bồ câu, diều là một chỗ phình rộng hơn, hình túi. Đà điểu không có diều. Diều nằm bên phải, chỗ đi vào khoang ngực, ngay trước chạc ba nối liền 2 xương đòn phải trái. Mặt ngoài của diều được tiếp xúc trực tiếp với cơ da, cơ này giúp cho nó giãn nở rộng khi thức ăn rơi vào. Các lỗ dẫn vào và dẫn ra của diều rất gần nhau và có các cơ thắt. Giữa các cơ thắt lại có ống diều - là một phần của diều. Khi chim đói, thức ăn theo ống này đi thẳng vào dạ dày, không qua túi diều nữa.
Thức ăn ở diều được làm mềm ra, quấy trộn và được tiêu hoá từng phần bởi các men của thức ăn và các vi khuẩn nằm trong thức ăn thực vật.
Nếu làm thí nghiệm cắt diều của chim đi, thức ăn đi qua ống tiêu hoá nhanh hơn nhưng sự tiêu hoá lại giảm đi một cách đáng kể, chim đẻ sút cân. Sau một thời gian, cơ thể sẽ lại tạo ra một cái diều mới, bên trên chỗ diều cũ.
Dịch diều - "sữa" của bồ câu non, giai đoạn 1-28 ngày tuổi
Một đặc điểm của bồ câu là khối lượng và tỷ lệ lòng đỏ trưng trứng thấp, khi nở ra, con non còn rất yếu nên hàng ngày, chim bố mẹ phải mớm cho chim non "sữa diều".
Trong lúc ấp trứng, có nhiều biến đổi xảy ra ở cơ thể chim bồ câu bố mẹ, giúp chúng sản xuất ra chất dinh dưỡng cho chim con trong những ngày đầu mới nở: dịch diều hay sữa chim bồ câu. Dưới tác động của hocmon prolactin, các mạch máu chằng chịt trên thành của bao diều ngày càng dày hơn, tới mức biến thành tuyến ngoại tiết, có thể so sánh với tuyến sữa ở loài có vú. Chiều dày của thành diều có thể tới 1cm và được cấu tạo bởi những mô bào, trong khi đó, ở vào thời điểm bình thường nó chỉ là một màng gần như trong suốt. Hocmon này cũng ngăn cản sự rụng trứng. Do vậy, nếu lấy đi những trứng mới đẻ trước lúc chim bố mẹ ấp thì sau 7 ngày chim mẹ sẽ lại đẻ; còn ngược lại, nếu lấy trứng muộn hơn, khi chim bố mẹ ấp, có nghĩa là có sự xảy ra của chu trình hocmon thì 10 ngày sau khi lấy trứng đi, chim mẹ mới đẻ lại.
Từ ngày thứ 12 trở đi thì chim bố mẹ mớm mồi cho chim non hoàn toàn là hạt. Hạt cùng với nước ợ từ diều chim bố mẹ mớm vào hốc miệng cho chim non. Một ngày chim bố mẹ mớm mồi cho chim con khoảng 5- 6 lần. Lần thứ nhất với thời gian ngắn, trung bình là 4 phút. Lần thứ hai vào lúc 9 - 10 giờ sáng, lúc này chim bố mẹ vẫn chưa được ăn nên thời gian mớm mồi ngắn hơn, trung bình 2 phút. Lần thứ ba vào khoảng 11 giờ, lúc này chim bố mẹ đã được ăn nên thời gian mớm mồi cho con lâu hơn, trung bình là 6 phút. Lần thứ tư vào lúc 14 - 15 giờ và lần thứ 5 là sau khi chim bố mẹ được ăn vào buổi chiều. Lần cuối cùng lúc trời tối. Khi chim con còn nhỏ thì thời gian chim bố mẹ mớm mồi dài hơn so với những con chim gần đến ngày ra ràng (28 ngày). Chim bố mẹ mớm mồi cho chim non rất lâu, có lúc mớm được 2 phút, chim nghỉ rồi mớm tiếp. Trong mỗi lần mớm mồi, chim bố mẹ phải nghỉ 7 - 8 lần.
Sau khi nuôi con được 10 - 18 ngày, chim mái bắt đầu đẻ lại và tiếp tục ấp những quả trứng mới đẻ. Điều này cho thấy cường độ làm việc của chim trống, mái cũng rất cao. Chúng vừa ấp trứng vừa nuôi con đang lớn. Hàng ngày khi ăn trưa xong thì chim mái thường đổi chỗ cho chim trống vào ấp thay. Cả chim trống và chim mái rất cần mẫn, khéo léo phối hợp với nhau một cách nhịp nhàng trong việc ấp trứng và nuôi con. Đây chính là một đặc điểm đáng quý của chim bồ câu.
Theo J.L.Frindel, tiến trình hình thành sữa như sau:
Sau khi đẻ xong quả trứng thứ 2 và từ ngày ấp thứ 4, một số phần của diều hình thành nên các tế bào tiết, làm cho thành diều dày hẳn lên. Từ ngày thứ 8 tới ngày 12, hình thành các "giọt nhỏ chất béo" trong một số lớp tế bào, chúng được tiết vào xoang diều, vài ngày sau đó, chim bồ câu sẵn sàng "mớm" sữa vào mỏ chim bồ câu con mới nở ra. Có hai loại ý kiến khác nhau về "sữa chim bồ câu": sự bài tiết sữa có thể so sánh với sự tiết sữa ở loài có vú; ý kiến khác cho rằng đây là sự tăng sinh của những tế bào chất béo ở phía bên trong niêm mạc diều; các tế bào này tách rời ra và tạo nên một chất lỏng sền sệt màu vàng nhạt tụ lại ở diều.
Sữa chim bồ câu chứa 14 - 16% protein và 8 - 10% chất béo; ngoài ra còn có chất khoáng, vitamin, nhưng không có hoặc rất ít đường. Vào ngày thứ 17 - 18, sự tiết sữa đạt mức cao nhất, kéo dài trong 7 - 8 ngày, sau đó bắt đầu giảm.
Theo sự phân tích của Bernard Lardeux, thành phần dinh dưỡng sữa chim bồ câu có thể thay đổi theo các tác nhân dưới đây:
- Sự khác nhau giữa các giống chim bồ câu.
- Thời gian sau khi nở.
- Thức ăn của chim bố mẹ.
Thành phần dinh dưỡng sữa chim bồ câu
Nước¼¼¼¼¼¼¼¼¼¼¼¼¼¼.64 - 82%
Protein¼¼¼¼¼¼¼¼¼¼¼¼¼..11 - 18.8%
Đường, bột¼¼¼¼¼¼¼¼¼¼¼¼0 - 6.4%
Chất béo¼¼¼¼¼¼¼¼¼¼¼¼¼4.5 - 12.7% Chất khoáng¼¼¼¼¼¼¼¼¼¼¼..0.8 - 1.8%
So với sữa bò (3,2 % protein; 3,5 % chất béo; 4,8 % đường) thì sữa diều của bồ câu có giá trị dinh dưỡng cao hơn.
Kết quả phân tích thành phần hoá học của dịch diều của Trung tâm Nghiên cứu Gia cầm Thụy Phương (2007) vào các ngày tuổi 1, 3, 5, 7 được thể hiện ở bảng sau.
Bảng 1.1. Thành phần hoá học của dịch diều bồ câu
           Chỉ tiêu (%)                                Ngày tuổi
                          1                   3                  5                  7
Vật chất khô               13,98             17,91             18,41             20,29
Protein thô                   6,75               6,96              8,92              9,49
Mỡ thô                         2,76               3,79              4,20              5,49
Xơ thô                           0,29               0,73              0,74              0,79
Khóang TS                  1,51               1,69              2,17              2,17
Canxi                           0,35               0,44              0,48              0,52
Phospho tổng số           0,16               0,20              0,21              0,23
Qua bảng ta thấy: hàm lượng vật chất khô thấp biến động từ 13,98% (ngày tuổi thứ nhất) đến 20,29% (ngày tuổi thứ 7) và chỉ số này tăng dần theo tuổi. Hàm lượng protein thô tăng dần theo tuổi: 6,75% (1 ngày tuổi); 6,96% (3 ngày tuổi); 8,92% (5 ngày tuổi); 9,49% (7 ngày tuổi). Hàm lượng mỡ thô tăng dần theo độ tuổi từ 2,76% ở ngày tuổi đầu tiên đến 4,59% ở ngày tuổi thứ 7. Tỷ lệ khoáng tổng số ở các ngày tuổi 1, 3, 5, 7 lần lượt tương ứng là: 1,51%; 1,69%; 2,17% và 2,17%.
Thành phần một số axit amin trong dịch diều Kết quả phân tích hàm lượng một số axit amin có trong thành phần của dịch diều ở các ngày tuổi 1, 3, 5, 7 được trình bày ở bảng 1.9. Các axit amin trong dịch diều đều tăng dần từ ngày tuổi thứ 5, sau đó giảm dần. Như vậy, cùng với sự tăng lên của độ tuổi, sự biến động về hàm lượng của các axit amin trong dịch diều là không giống nhau.
Bảng 1.2. Kết quả phân tích axit của dịch diều bồ câu non giai đoạn 1-7 ngày tuổi (n=10)
                                                              Ngày tuổi
Axit amin (%)       1                    3                   5                  7
Aspartic                 0,65               0,86               0,84              0,68
Glutamic                 0,88               1,29               1,23              1,02
Serine                     0,34               0,43               0,41              0,32
Histidine                 0,16               0,21               0,23              0,18
Glycine                   0,28               0,37               0,34              0,296
Treonine                  0,29               0,41               0,38              0,28
Alanine                    0,34               0,49               0,46              0,37
Arginine                   0,42               0,62               0,56              0,45
Tyrosine                  0,23               0,30               0,29              0,23
Valine                      0,32               0,46               0,42              0,33
Methionine               0,16               0,17               0,20              0,14
Phenylalanine           0,32               0,47               0,42              0,34
Lsoleucine                0,27               0,39               0,34              0,30
Leucine                    0,59               0,80               0,79              0,63
Lysine                      0,53               0,63               0,52              0,40
4- Hydroxy Proline    0,24               0,65              0,60               0,46
Proline                       0,32               0,41               0,42              0,39
Nguồn: Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương,Viện Chăn nuôi, 1997
Hàm lượng đường hoà tan
Kết quả phân tích hàm lượng đường hoà tan trong thành phần dịch diều được trình bày ở bảng 1.10.
Bảng 1.3. Hàm lượng đường hoà tan trong dịch diều bồ câu non
giai đoạn 1-7 ngày tuổi (n=10)
                                                                   Ngày tuổi
Loại đường      
                                 1                  3                   5                  7
Sacharoza (mg/ml)   0,88               0,52               0,48              0,38
Glucoza (mg/ml)      1,82               1,26               1,23              1,76
Nguồn: Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương, Viện Chăn nuôi, 1997
Hàm lượng đường sacharose cao nhất ở ngày tuổi đầu tiên (0,88 mg/ml), sau đó có xu hướng giảm dần theo ngày tuổi, đến ngày tuổi thứ 7 chỉ còn 0,38mg/ml. Trong khi đó hàm lượng đường glucose cao hơn và biến động như sau: cao nhất ở ngày tuổi đầu tiên (1,82mg/ml), sau đó giảm mạnh ở ngày tuổi thứ 3, thứ 5 (chỉ còn tương ứng là 1,26mg/ml và 1,23mg/ml). Nhưng đến ngày tuổi thứ 7 lại có xu hướng tăng lên đạt 1,76mg/ml - tuy nhiên chưa đạt bằng giá trị ngày tuổi thứ nhất.
Qua bảng 1.11, hàm lượng protein-enzyme hào tan tăng từ 1 đến 3 ngày tuổi và đạt mức cao nhất (4,57mg/ml), sau đó giảm dần từ ngày tuổi thứ 5 (3,82mg/ml) cho đến ngày tuổi thứ 28 (2,19mg/ml).
IU/ml               IU/PƯ         IU/ml         IU/PƯ         IU/ml         IU/PƯ
1     240             960             15               60              Vết            Vết
3    257,5           1030            22               88              Vết            Vết
5    438,5           1754            40              160             Vết            Vết
7    473,5           1795            75              300             50              200
21    607            2428            90              360             58              220
28    612            2448            100             400             59              232
Ghi chú: IU- international Unit (đơn vị quốc tế); PƯ- phản ứng
Nguồn: Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương, Viện Chăn nuôi , 1997
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong dịch diều chim non, hoạt độ của ba loại enzyme tiêu hoá chính: amylaza, proteaza, lipaza đều tăng dần theo ngày tuổi. Do đó, sự phụ thuộc của con non vào dịch dinh dưỡng của chim bồ cầu bố mẹ giảm dần để chuẩn bị cho một giai đoạn tự lập hoàn toàn khi con non được 28 ngày tuổi.
Thành phần của sữa diều bị ảnh hưởng bởi khẩu phần ăn của chim bố mẹ. Nếu khẩu phần của chim bố mẹ thiếu chất dinh dưỡng thì chúng phải huy động chất dinh dưỡng dự trữ trong cơ thể để tiết sữa cho chim con.
Trong những ngày đầu mới nở, "sữa" là thức ăn duy nhất của chim con. Từ ngày thứ 4, 5 chim bố mẹ chuyển thêm vào sữa cả thức ăn, chúng đưa thức ăn vào trước, đó là những hạt bé li ti, để đến ngày thứ 12 - 15 thì chim non hoàn toàn ăn và tiêu hoá được thức ăn bình thường. Ở 12 ngày tuổi là thời điểm quyết định đối với chim câu con. Nó tương ứng với thời điểm cai sữa của chim bố mẹ. Tuy vậy, cũng có khi sự tiết sữa kéo dài tới tận ngày thứ 20 - 25, nhưng với một lượng sữa rất ít.
Có trường hợp chim bồ câu bố mẹ vừa nuôi lứa chim bồ câu con một tháng vừa nuôi mớm lứa chim bồ câu mới nở. Chim bố mẹ hoàn toàn có khả năng phân phối thức ăn hạt cho chim con lớn và "sữa" cho lứa mới nở chỉ với một khoảng cách vài phút mà không có sự lầm lẫn nào hết.
c.Tiêu hoá ở dạ dày
Dạ dày chim gồm dạ dày tuyến và dạ dày cơ. Thức ăn từ diều được chuyển vào dạ dày tuyến, nó có dạng ống ngắn, vách dày, được nối với dạ dày cơ bằng một eo nhỏ. Vách dạ dày tuyến cấu tạo gồm màng nhày, cơ và mô liên kết. Bề mặt của màng nhầy có những nếp gấp dễ thấy, đậm và liên tục.
Ở đáy màng nhầy có những tuyến hình túi phức tạp. Dịch dạ dày được tiết vào trong khoang của dạ dày tuyến, có axit clohidric, enzim và musin. Cũng như ở động vật có vú, pepsin được tiết ra ở dạng không hoạt động - pepsinogen và được hoạt hoá bởi axit clohidric. Các tế bào hình ống của biểu mô màng nhầy bài tiết ra một chất nhầy đặc rất giàu musin, chất này phủ lên bề mặt niêm mạc của dạ dày. Sự tiết dịch dạ dày ở chim là liên tục, sau khi ăn thì tốc độ tiết tăng lên.
Dịch dạ dày tinh khiết là một chất lỏng không màu hoặc hơi trắng đục, có pH axit. Độ pH của dịch dạ dày ở chim trung bình là 3,0; thường là 2,6. Độ pH sẽ giảm xuống sau khi tiếp nhận thức ăn giàu chất kiềm, cacbonat canxi, bột xương. Ở chim, số lượng dịch dạ dày và độ axit tăng dần lên cùng với độ tuổi. Ở chim con vài ngày tuổi, dịch dạ dày có tính axit (pH = 4,2 - 4,4). Axit clohidric tự do không thường xuyên được tìm thấy trong khối chứa trong dạ dày của chim con có độ tuổi từ 1 - 5 ngày.
Kiểu cho ăn ảnh hưởng đến lượng chế tiết và hoạt tính proteolytic của dịch dạ dày. Hoạt tính phân giải protein (proteolytic) của dịch dạ dày ở chim con 10 - 20 ngày tuổi đạt tới mức độ cao (1,36 - 2,00mm) và sau đó bị thay đổi rất ít đến 60 ngày tuổi.
Dạ dày cơ (mề) có dạng hình đĩa, hơi bị bóp ở hai bên, nằm ở phía sau thuỳ trái của gan và lệch về khoang bụng trái. Lối vào và lối ra ở dạ dày cơ rất gần nhau, nhờ vậy, thức ăn được giữ lại tại đây lâu hơn, chúng sẽ bị nghiền nát bằng cơ học, trộn lẫn với men và được tiêu hoá dưới tác dụng của các dịch dạ dày cũng như enzim và chất tiết của vi khuẩn. Dịch tiêu hoá không được tiết ra ở dạ dày cơ.
Niêm mạc của mề rất dày và được cấu tạo từ hai lớp: biểu bì cùng với lớp màng bằng sừng và một lớp nhầy đặc chắc từ mô liên kết.
Trong việc tạo thành màng sừng có các tuyến của màng nhầy, biểu bì của những chỗ trũng ở dạ dày tham gia.
Màng sừng của mề luôn bị mòn đi, nhưng nhờ sự dày lên ở đáy nên chiều dày của nó được ổn định. Ngoài ý nghĩa cơ học, màng sừng còn giữ cho vách dạ dày khỏi bị tác động của những yếu tố bất lợi. Màng sừng bền với pepsin, không bị hoà tan trong các axit loãng, kiềm và các dung môi hữu cơ (Ju, T. Techver, 1984).
Các sản phẩm tiêu hoá, thức ăn, vi khuẩn không được hấp thu qua màng sừng, vách dạ dày.
Lớp cơ của mề cấu tạo từ mô cơ phẳng, một đôi cơ lớn chính có dạng hình tam giác hướng các đáy lại với nhau đã tạo nên khối cơ của vách mề.
Sự co bóp nhịp nhàng của mề xảy ra trong 2 pha: trong pha đầu, 2 cơ chính co bóp; và sau đó là các cơ trung gian (pha thứ 2). Thời gian của mỗi nhịp co của 2 đôi cơ trong khoảng 2 - 3 giây, còn cả chu kỳ co bóp là 20 giây. Tần số co bóp phụ thuộc vào độ rắn của thức ăn. Khi ăn thức ăn ướt có 2 lần co bóp, còn thức ăn cứng - 3 lần trong 1 phút.
Sỏi và các dị vật chứa trong dạ dày có một ý nghĩa nhất định trong việc nghiền và làm sạch những tiểu thể thức ăn trong khoang dạ dày. Chúng làm tăng tác dụng nghiền của vách dạ dày.
Đối với chim, sỏi tốt nhất là từ thạch anh, chúng bền với axit clohidric của dịch dạ dày. Để hệ tiêu hoá hoạt động bình thường thì kích thước của các viên sỏi với chim con mới nở nên nhỏ (đường kính 2,5 - 3mm) và tăng lên theo tuổi. Chim đã trưởng thành có thể nuốt được loại sỏi có đường kính đến 4-6 mm. Không nên thay sỏi bằng cát, đá vôi, thạch cao, vỏ sò, vỏ ốc hến, phấn. Cát sẽ đi rất nhanh từ dạ dày vào ruột và gây kích thích. Những chất khác đã kể trên sẽ bị axit clohidric hoà tan và gây rối loạn tiêu hoá ở dạ dày, sau đó là ở ruột.
Nếu không có sỏi trong dạ dày cơ thì sự hấp thu các chất dinh dưỡng và hệ số tiêu hoá thức ăn bị giảm xuống. Ở chim non, việc thiếu sỏi trong dạ dày làm giảm khối lượng tuyệt đối của dạ dày 30 - 35%. Các cơ của dạ dày sẽ trở nên nhũn và xuất hiện những vết loét trên màng nhầy.
Trong dạ dày cơ, ngoài việc nghiền thức ăn cơ học, còn sảy ra quá trình hoạt động của các men. Dưới tác động của axit clohidric, các phân tử protein trở nên căng phồng và dễ bị phân giải.
d. Tiêu hoá ở ruột
Quá trình tiêu hoá các chất dinh dưỡng đều xảy ra ở ruột non của chim. Nguồn các men tiêu hoá quan trọng nhất là từ dịch dạ dày, cùng với mật đi vào manh tràng, chất tiết của các tuyến ruột có ý nghĩa kém hơn.
Dịch ruột chim là một chất lỏng đục, có phản ứng kiềm yếu (pH - 7,42) với tỷ trọng 1,0076. Trong thành phần dịch ruột có các men proteolytic, aminolytic và lypolytic và c men enterokinaza.
Dịch tuỵ là một chất lỏng không màu, hơi mặn, có phản ứng hơi toan hoặc hơi kiềm (pH 7,2 - 7,5). Trong chất khô của dịch, ngoài các men, còn có các axit amin, lipit và các chất khoáng (NaCl, CaCl2, NaHCO3 ...).
Dịch tuỵ của chim trưởng thành có chứa các men tripsin, cacbosipeptidaza, amilaza, mantaza, invertaza và lipaza.
Tripsin được bài tiết ra ở dạng chưa hoạt hoá là tripsinogen, dưới tác động của men dịch ruột enterokinaza, nó được hoạt hoá, phân giải các protein phức tạp ra các axit amin. Men proteolytic khác là các cacbosipeptidazađược tripsin hoạt hoá cũng có tính chất này.
Các men amilaza và mantaza phân giải các polysacarit đến các monosacarit như glucoza. Lipaza được dịch mật hoạt hoá, phân giải lipit thành glyserin và axit béo.
Cơ chế việc chế tiết tuyến tuỵ ở chim giống với động vật có vú. Ở chim trưởng thành, trước khi cho ăn, tuyến tiết ra một lượng dịch nhỏ (sự chế tiết bình thường). Từ 5 - 10 phút sau khi cho ăn, mức độ chế tiết tăng 3 - 4 lần và giữ đến giờ thứ ba, sau đó việc tiết dịch dần dần giảm xuống, đến giờ thứ 9 - 10 sau khi cho ăn thì bằng mức độ ban đầu.
Số lượng dịch và hoạt tính men thay đổi phụ thuộc vào thể tích và thành phần thức ăn. Thức ăn giàu protein sẽ nâng hoạt tính proteolytic của dịch lên đến 60%; thức ăn giàu lipit sẽ làm tăng cường hoạt tính lypolytic, hoạt tính này được giữ ở mức độ cao đến 10 giờ. Bột đậu tương có chứa nhiều protein và dầu sẽ nâng mức độ chế tiết của tuyến lên 85% và đồng thời cũng nâng cả hoạt tính proteolytic và hoạt tính lypolytic của dịch lên tương ứng đến 20% và 16%.
Mật được gan tiết ra không ngừng, một phần đi vào túi mật (gà, vịt, ngỗng), phần còn lại thì đổ trực tiếp và tá tràng. Ở chim bồ câu, gà phi và đà điểu không có túi mật, tất cả mật tiết ra đều đổ thẳng vào tá tràng.
Mật chim là một chất lỏng màu sáng hoặc xanh đậm, kiềm tính (pH 7,3 - 8,5). Dịch trong túi mật đậm đặc hơn và có màu đậm hơn. Về thành phần mật, ở các loài chim khác nhau không giống nhau. Các thành phần điển hình của mật là các axit mật, sắc tố, và cholesterin, ngoài ra còn có gluxit, các axit béo và các lipit trung tính, musin, các chất khoáng và các sản phẩm trao đổi chất có chứa nitơ. Ngoài sự tham gia vào quá trình tiêu hoá ở ruột, gan còn đóng vai trò quan trọng trong trao đổi protein, gluxit, lipit và khoáng. Trong gan, các axit uric, các chất cặn bã khác, hồng cầu chết bị phân huỷ, chất độc hại... được trung hoà và thải vào nước tiểu. Trong các tế bào của gan có chứa glycogen, là nguyên liệu để tạo nên các vitamin quan trọng (A, D, và các vitamin khác).
Các men trong ruột hoạt động trong môi trường axit yếu, kiềm yếu; pH dao động trong những phần khác nhau của ruột.
Trong tá tràng, dưới tác động của axit clohidric và các men của dịch dạ dày (pepsin và chimosin), protein bị phân giải đến pepton và polypetit. Các men proteolytic c a dịch tuỵ tiếp tục phân giải chúng đến các axit amin trong hồi tràng; gluxit của thức ăn được phân giải đến các monosacarit, do tác động của amilaza của dịch tuỵ và một phần do amilaza của mật và của dịch ruột; Sự phân giải lipit được bắt đầu trong tá tràng, dưới tác động của dịch mật, dịch tuỵ và tạo ra các sản phẩm là monoglyserit, glyserin và axit béo.
Các quá trình tiêu hoá và hấp thu ở ruột non xảy ra đặc biệt tích cực. Sự phân giải các chất dinh dưỡng không chỉ có trong khoang ruột (tiêu hoá ở khoang), mà cả ở trên bề mặt các lông mao của các tế bào biểu bì (sự tiêu hoá ở màng). Tiêu hoá ở khoang là sự thuỷ phân thức ăn, còn tiêu hoá ở màng là các giai đoạn tiếp theo, tạo ra các sản phẩm cuối cùng của sự tiêu hoá để hấp thu (A. M. Ugolep, 1980). Các cấu trúc phân tử và trên phân tử của thức ăn có kích thước lớn được phân giải dưới tác động của các men trong khoang ruột, tạo ra các sản phẩm trung gian nhỏ hơn, chúng đi vào vùng có nhiều nhung mao của các tế bào biểu mô. Ở đó, trên các nhung mao có các men tiêu hoá, tại đây diễn ra giai đoạn cuối cùng của sự thuỷ phân để tạo ra sản phẩm cuối cùng như axit amin, monosacarit chuẩn bị cho việc hấp thu. Quan hệ qua lại của quá trình tiêu hoá ở khoang, ở màng và vai trò của tiêu hoá màng ruột của chim hiện nay còn chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Sự tiêu hoá trong manh tràng của chim nhờ có các men đã đi vào cùng với chymus từ phần ruột non và từ hệ vi khuẩn. Các vi sinh vật bắt đầu thâm nhập vào manh tràng gia chim ngay từ lần tiếp nhận thức ăn đầu tiên. Ở đây, các vi khuẩn streptococei, trực khuẩn ruột, lactobasilli...sinh sản rất nhanh. Trong manh tràng cũng sảy ra quá trình tiêu hoá protein, gluxit và lipit. Ngoài ra, các vi khuẩn còn tổng hợp các vitamin nhóm B.
Khả năng tiêu hoá chất xơ của chim rất hạn chế. Cũng như ở động vật có vú, các tuyến tiêu hoá của gia cầm không tiết ra một men đặc hiệu nào để tiêu hoá xơ. Một lượng nhỏ chất xơ được phân giải trong manh tràng bằng các men do vi khuẩn tiết ra. Những gia cầm nào có manh tràng phát triển hơn như đà điểu, ngan, ngỗng... thì các chất xơ được tiêu hoá nhiều hơn. ở các loại chim khác nhau thì chỉ có có trung bình từ 10 - 30% cất xơ được phân giải.
f. Sự hấp thu
Ở chim, các quá trình hấp thu chủ yếu xảy ra ở ruột non. ở đây các sản phẩm phân giải cuối cùng protein, lipit và gluxit; nước, các chất khoáng, các vitamin được hấp thu.
Các chất chứa nitơ chủ yếu được hấp thu dưới dạng các các axit amin. Cường độ hấp thu các axit amin riêng biệt không phụ thuộc vào khối lượng phân tử của chúng.
Gluxit được hấp thu dưới dạng các đường đơn (monosacarit) và đường đôi (disacarit).
Hấp thu mỡ. Trong ruột, dưới tác động của men lipaza, mỡ được phân giải đến glyserin và axit béo. Các sản phẩm của sự phân giải mỡ, về cơ bản được hấp thu trong phần mỏng của ruột. Glyserin được hoà tan rất tốt trong nước và được hấp thu rất nhanh. Các axit béo kết hợp với các axit mật, kali và natri tạo thành các hợp chất hoà tan được trong nước sau đó mới được hấp thu. Người ta cho rằng một phần nhỏ của lipit dưới dạng các nhũ tương có thể được hấp thu trực tiếp.
Trong tương bào của biểu mô ruột, các axit béo bị tách ra khỏi các axit mật và một phần được tái tổng hợp thành các phân tử của lipit. Các axit béo được giải phóng ra trong quá trình hấp thu kích thích sự hấp thu lẫn nhau, chẳng hạn, khi có các axit béo không bão hoà thì vận tốc hấp thu các axit béo bão hoà như palmitinic và stearinic được tăng lên trong ruột non chim con. Hiệu quả của việc bổ sung lipit vào khẩu phần của chim con phụ thuộc vào tỷ lệ giữa các axit béo bão hoà và không bão hoà trong khẩu phần. Hấp thu nước ở chim được thực hiện trong tất cả các phần ruột non và ruột già. Có từ 30 - 50% nước nước uống được hấp thu, quá trình này phụ thuộc áp suất thẩm thấu trong ruột, trong máu và các mô. Người ta đã xác định được rằng trong một số trường hợp, ở chim có sự tuần hoàn nước, một phần nước đã được hấp thu từ ruột vào máu rồi lại bị bài tiết trở lại vào diều, làm nó căng phồng lên.
Các chất khoáng được hấp thu trên toàn bộ chiều dài ruột non. Diều, dạ dày và ruột già hấp thu các chất khoáng không đáng kể. Các muối natri, kali clorua hoà tan được trong chymus, được hấp thu một cách chọn lọc và với tốc độ khác nhau, phụ thuộc vào nhu cầu về các chất đó của cơ thể. Natri clorua đặc biệt dễ được hấp thu trong ruột chim con. Khi cho ăn thừa, muối này sẽ sinh ra sự rối loạn trao đổi chất, chim sẽ bị nhiễm độc muối.
Cường độ hấp thu canxi phụ thuộc vào nồng độ canxi trong máu, tính chất của khoáng trong thức ăn cũng như hàm lượng dịch mật và vitamin D3 trong ruột. Khi chim bị bệnh còi xương thì sự hấp thụ canxi bị giảm xuống đột ngột. Canxi còn bị hấp thu ít hơn khi không có đủ vitamin D trong khẩu phần. Muối canxi clorua được hấp thu tốt hơn so với các muối canxi khác. Lượng photpho quá cao trong khẩu phần sẽ làm ngừng việc hấp thu canxi. Tuổi và trạng thái sinh lý của chim cũng ảnh hưởng đến sự hấp thu canxi. Sự hấp thu photpho phụ thuộc vào sự tương quan của nó với canxi và được xác định bởi nhu cầu trong cơ thể.
Vitamin A được hấp thu ở manh tràng. Chim non hấp thu vitamin A nhanh hơn nhiều so với chim trưởng thành: sau 1 - 1,5 giờ sau khi cho ăn đã tìm thấy vitamin này trong máu, còn ở chim mái đẻ chỉ thấy sau khi ăn 12 giờ. Trong ruột chim, vitamin A được tìm thấy trong biểu mô của màng nhầy, ở dạng este.
Sự hấp thu carotin xảy ra sau khi chúng vừa giải phóng khỏi các hợp chất béo và việc hoà tan chúng trong chymus. Các axit mật gây kích thích hấp thụ huyền dịch b- carotin. Việc hấp thu carotin bị giảm xuống khi cơ thể được cung cấp vitamin A.
Cường độ hấp thu vitamin B1 phụ thuộc vào nhu cầu của cơ thể và vào nồng độ của nó có trong thức ăn. Sự hấp thu xảy ra tốt hơn ở những phần bên trên của ruột non. Việc bổ sung các chất kháng sinh vào thức ăn làm tăng cường sự hấp thu tiamin ở chim con.
Vitamin E ở chim con được hấp thu với sự tham gia của dịch mât.
1.2.7. Hệ Bài tiết
Trong quá trình bài tiết, cơ thể thải ra: các sản phẩm cặn bã cuối cùng của trao đổi chất; Các chất được tích tụ thừa trong cơ thể (nước, gluco, các muối và các chất khác); Các chất lạ xâm nhập từ ngoài vào cơ thể (các thuốc màu, chất độc ¼.).
Sự bài tiết các chất không cần thiết cho cơ thể động vật được thực hiện một phần do phổi (qua không khí thở ra); ống tiêu hoá (các kim loại nặng, nước, các chất sắc tố, các biểu mô bị tróc ra, các chất protein¼) qua phân; da và các tuyến của da (nước, các sản phẩm có chứa nitơ và chất béo, các muối¼) qua tuyến bã, tuyến mồ hôi - phần này ở chim rất hạn chế); qua thận (nước, chất khác có nguồn gốc nội sinh và ngoại sinh qua nước tiểu).
Hệ thống bài niệu ở chim có những điểm đặc biệt về hình thái học: tiểu cầu thận (tiểu cầu malpighi) ít bị phân nhánh, không có những ống uốn khúc loại thứ hai (các ống uốn khúc xạ và các núm lồi thận, các nephron được sắp đặt ở trong lớp vỏ cũng như trong lớp tuỷ, bể thận (pelvis ranalis) không có, không có cả bóng đái, các niệu quản (ureter) được bắt đầu trong các tiểu thuỳ và kết thúc ở ổ nhớp.
Về tính chất và thành phần nước tiểu của chim cơ bản khác với của động vật có vú. Trung bình, độ đậm đặc của nước tiểu ở chim 1,004 - 1,005. Độ pH của nước tiểu là trung tính, kiềm nhẹ hoặc axit nhẹ. Khi chim bị đói, nước tiểu kiềm, khi được nuôi bằng thức ăn nhiều protein thì nước tiểu sẽ có phản ứng axit.
Các chất hữu cơ trong nước tiểu có chứa axit uric, urê, creatin, cretinin, amoniac, các axit amin, axit ornituric, guanin. Khác với động vật có vú, sản phẩm có nitơ cơ bản của nước tiểu chim không phải là urê mà là axit uric. Axit uric được tạo ra ở gan và là sản phẩm cơ bản cuối cùng của sự trao đổi protein. Do phôi chim phát triển trong vỏ bọc nhỏ và kín của trứng, lại không có sự hỗ trợ của cơ thể mẹ (theo kiểu hoạt động của nhau thai) nên rất cần thiết sao cho các sản phẩm cuối cùng của trao đổi chất phải được cô đặc. Axit uric thoả mãn yêu cầu này tốt hơn urê, vì urê ở nồng đồ cao thì độc. Axit uric ở phôi được tích tụ trong xoang túi niệu. Sau khi nở, túi niệu đã khô, cùng với các sản phẩm bài tiết, nó được giữ lại trong vỏ nên không gây độc cho chim non. Cũng vì tính chất kết tủa nhanh của axit uric ngay sau khi được tạo ra nên chim không thể tích nước tiểu trong bàng quang mà phải thải ngay nó vào phân, đó chính là lý do ở loài chim, sản phẩm trao đổi cuối cùng của protein là axit uric và không có bóng đái.
Khi nghiên cứu cấu trúc vi thể của nước tiểu, người ta thấy có các hạt nước tiểu nhỏ cấu tạo từ axit uric, chúng có hình dạng không lớn (kích thước gần như các hồng cầu) có cấu tạo dạng tia, xung quanh được kết hợp với nhau bởi chất nhầy và tạo nên một lớp màng đặc thù màu xám trắng trên phân. Nếu sự trao đổi chất bị phá vỡ, axit uric được tạo thành nhiều đến nỗi nó có thể lắng đọng ngay trên bề mặt thận, gan và tim, bịt kín các đường dẫn nước tiểu và có thể dẫn đến cái chết.
Số lượng urê, creatin và creatinin trong nước tiểu chim là không đáng kể. Nồng độ của chúng được tăng lên chỉ khi nào sự trao đổi chất bị phá vỡ, cụ thể là khi không có đủ các vitamin nhóm B. Guamin được tìm thấy trong nước tiểu của chim chỉ khi nào nuôi chúng bằng bột cá.
Bài tiết nước tiểu. Được tạo ra trong thận, nước tiểu đi vào các niệu quản. Sự chuyển động của nó theo các niệu quả tạo điều kiện cho những co bóp có nhịp điệu của chúng. Các cơ của các niệu quản thực hiện từ 3 - 6 lần co trong 1 phút. Ở nơi các niệu quản đi vào ổ nhớp có các cơ thắt. Các dây thần kinh giao cảm làm co các cơ này và làm mềm vách niệu quản, tạo điều kiện giữ nước tiểu lại trong niệu quản. Khi kích thích các dây thần kinh phó giao cảm, các cơ thắt được mở ra, các niệu quản bị co bóp và đẩy nước tiểu đi vào ổ nhớp.
1.2.8. Hệ nội tiết
Hocmon của tuyến yên tác dụng lên hoạt động của hầu hết tất cả các tuyến nội tiết khác và có ý nghĩa quan trọng cho việc phát triển của cơ thể và hoạt động bình thường của chim. Adenohipofis (thuỳ trước tuyến yên) sản xuất 6 hocmon: tireostimulin, ACTH (Adreno - Cortico - Trophin - Hocmon), Gonadostimulin (foliculostimulin - FSH, luteinostimulin - LH và prolactin), Somatotropin (hocmon phát triển). Tuyến yên thần kinh tiết ra 2 hocmon: oxitoxin và hocmon chống lợi tiểu (ADH). Hocmon của thuỳ trước và thuỳ sau tuyến yên là những protein thuộc nhóm polipetit và glucoproteit. Tireostimulin (hocmon kích ố giáp - TTH) được tcác tế bào ưa bazơ của tuyến yên tạo nên và là glucoproteit. TTHđiều khiển chức năng hoạt động của tuyến giáp. Sau khi cắt tuyến yên của chim trưởng thành thì tế bào tuyến giáp bị teo và sản phẩm của nó là tiroxin bị giảm mạnh, trao đổi protein bị giảm sút. Nếu chim đã bị cắt tuyến yên mà đưa TTH vào thì chức năng nội tiết của tuyến giáp dần dần được hồi phục. Việc thừa TTH sẽ dẫn tới phì đại tuyến giáp. TTH tác động lên tuyến giáp là chủ yếu vì nó làm tăng hoạt tính chuyển hoá tế bào, đốc thúc sự bài tiết hocmon từ tuyến này, tăng tính thấm của màng tế bào với iot - một nguyên tố rất cần cho việc tạo nên hocmon của tuyến giáp. TTH dần dần mất hoạt tính khi tác dụng lên tuyến giáp. Hoạt động hocmon của tuyến giáp bị ức chế khi thừa iot trong cơ thể.
TTH được tiết ra liên tục với một lượng nhỏ trong điều kiện chăn nuôi chim bình thường. Mức độ sản xuất nó của tuyến yên phụ thuộc vào nồng độ hocmon tuyến giáp trong máu. Nếu hocmon này ít thì thuỳ trước tuyến yên tăng tiết TTH, và như vậy sẽ kích thích hoạt động của tuyến giáp. Việc thừa hocmon tuyến giáp sẽ ức chế việc tiết TTH của thuỳ trước tuyến yên. Mối liên hệ của tuyến yên với tuyến giáp được hình thành theo nguyên tắc quan hệ ngược chiều. Vùng dưới đồi thị đóng vai trò lớn trong việc điều khiển chức năng chính thuỳ trước tuyến yên. Sau khi phá huỷ tế bào thần kinh ở các vùng tương ứng của phần trước và dưới đồi thị thì việc tạo TTH bị ức chế. Việc giảm nhiệt độ môi trường xung quanh kích thích chức năng kích tố tuyến giáp và tăng hoạt động của tuyến giáp, tăng các quá trình trao đổi và tạo nhiệt, có ý nghĩa bảo vệ cho cơ thể.
ACTH (Adreno-Cortico-Tropin-Hocmon) là polipeptit. ACTH kích thích sinh trưởng và  phát triển của tuyến thượng thận và tạo nên hocmon Corticosteroit. Việc điều khiển hoạt động hocmon của tuyến thượng thận đã nhận thấy ở phôi gà 12 - 15 ngày tuổi. ở những phôi đã loại bỏ tuyến yên, có sự teo của tuyến thượng thận. Việc đưa ACTH vào phôi sẽ bảo đảm tăng
cường bài tiết corticosteroit và tăng khối lượng của tuyến thượng thận. Nồng độ ACTH cao dẫn tới việc giảm nhanh colesterin và axit ascorbic trong tế bào thượng thận, và nồng độ chúng bị giảm đi nhanh chóng. Như vậy, ngay trong thời kỳ phôi thai, mối liên quan chặt chẽ giữa thuỳ trước tuyến yên và tuyến thượng thận đã được ổn định, cho phép cơ thể thích nghi với những tác động strees từ môi trường bên ngoài và bên trong, và bảo đảm các quá trình phát triển bình thường.
Ở chim trưởng thành, trong các điều kiện nuôi dưỡng bình thường, việc tạo ra ACTH phụ thuộc vào nồng độ corticosteroit trong máu. Sự giảm đi của chúng kích thích việc tạo nên và bài tiết ACTH của thuỳ trước tuyến yên. Việc tăng bài tiết ACTH xảy ra dưới ảnh hưởng của các nhân tố strees (lạnh, nóng, kích thích thần kinh...) gây nên trạng thái căng thẳng trong cơ thể. Khi đó ACTH kích thích sự bài tiết glucocorticoit (corticosteron, hydrocortizon), chúng được gọi là hocmon thích ứng. Vỏ bán cầu não cũng tham gia điều chỉnh việc tạo thành ACTH, điều đó bảo đảm cho việc điều chỉnh nhanh và chính xác hoạt tính hocmon của vỏ thượng thận thông qua vùng dưới đồi và tuyến yên, dưới tác dụng của những tác nhân stress.
Hocmon hướng sinh dục (gonadostimulin) ở chim kiểm soát chức năng hoạt động sinh dục của tuyến yên. Hocmon kích thích nang (FSH) thúcđẩy sự phát triển nang ở buồng trứng của con cái, ở con đực là việc lớn lên của các ống sinh tinh và sự phát triển của tinh trùng trong tinh hoàn. Luteinostimulin (LH) cần thiết để cho những trứng chín thoát ra khỏi nang, tạo ra sự rụng trứng và tạo nên các hocmon sinh dục của buồng trứng. ở con đực, hocmon này kích thích chức năng nội tiết của các tế bào kẽ ở tinh hoàn. Prolactin hay hocmon tạo luteinostimulin điều khiển sự phát triển bản năng ấp trứng ở chim và đẩy mạnh hoạt động của tuyến ngực (ở chim bồ câu) kìm hãm việc tiết FSH và estrogen. Kết quả của chọn lọc định hướng ở một số giống chim đã loại bỏ bản năng ấp của chúng. Mối liên quan chức năng giữa tuyến yên và các tuyến sinh dục được hình thành ngay ở thời kỳ phôi thai. Sau khi phá huỷ tuyến yên ở phôi chim thì các tuyến sinh dục không phát triển. Cùng với việc trưởng thành sinh dục, vai trò của các hocmon hướng sinh dục thuỳ trước tuyến yên càng tăng. Việc cắt bỏ tuyến yên ở chim trưởng thành dẫn tới sự xuất hiện những dấu hiệu đặc trưng cho con thiến: ngừng phát triển mào, teo nhỏ các tuyến sinh dục.
Ở chim, việc tiết LH xảy ra 6 - 8 tiếng trước khi rụng trứng. Lượng hocmon hướng sinh dục phụ thuộc vào trạng thái sinh lý của chim. Ở chim, lượng FSH và LH ít hơn ở chim chưa đẻ. Khi tiêm hocmon vào thì buồng trứng chim trưởng thành phản ứng mạnh hơn (nhất là trước khi trứng rụng) so với chim chưa trưởng thành. Điều này được giải thích là trong các tế bào của tuyến yên trước khi trứng rụng, hocmon hướng sinh dục được tích luỹ; Ở chim ấp, LH nhiều hơn chim đẻ. Nếu đưa chiết suất hocmon gây ấp của thuỳ trước tuyến yên vào cho bồ câu, thì thấy hiện tượng phát triển mạnh biểu mô diều và tạo nên "sữa diều". Có thông báo cho rằng việc thừa LH sẽ làm giảm chức năng của tuyến sinh dục. Việc đưa hocmon này vào chim non gây teo tế bào sinh dục. Việc đưa FSH vào cơ thể chim sẽ trung hoà tác dụng của LH lên tuyến sinh dục. Sự xuất hiện bản năng ấp ở chim mái có thể ngừng nếu đưa estrogen vào.
Chức năng hướng sinh dục của thuỳ trước tuyến yên phụ thuộc vào hàm lượng hocmon sinh dục trong máu. Nếu số lượng chúng bị giảm, thì sản phẩm hocmon hướng sinh dục tăng lên. Việc tăng hàm lượng estrogen trong máu sẽ hạn chế tiết FSH và kích thích việc tạo nên LH. Hocmon sinh dục tác dụng lên thuỳ trước tuyến yên qua vùng dưới đồi. Việc đưa hocmon sinh dục vào cơ thể trong một thời gian dài sẽ làm giảm hoạt tính của tế bào vùng dưới đồi, giảm việc tạo dịch tiết thần kinh của chúng, như vậy sẽ làm ngừng trệ sản xuất hocmon hướng sinh dục. Tóm lại, chức năng hướng sinh dục của thuỳ trước tuyến yên được điều khiển theo nguyên tắc của các mối liên hệ ngược chiều.
Hocmon sinh trưởng hay somatotropin (STH), chưa được nghiên cứu đầy đủ ở chim, có một số tác giả không chấp nhận nó. Dù vậy, sự phụ thuộc giữa sinh trưởng chim với tuyến yên được chứng minh trong thí nghiệm cắt bỏ tuyến yên. Cắt bỏ tuyến yên sẽ làm giảm khối lượng phôi chim, nhưng vẫn giữ được mối tương quan bình thường giữa các phần cơ thể.
Trong thời kỳ sau phôi thai, quá trình phát triển xương và các cơ quan nội tạng bị phá huỷ. Người ta cho rằng tác dụng kích thích sinh trưởng của STH được thể hiện với sự có mặt của các hocmon tuyến yên khác.
Hocmon của thuỳ sau tuyến yên (thuỳ thần kinh) - hocmon chống lợi tiểu (ADH) và oxitoxin, là những polipeptit. ADH tăng cường việc hấp thu lại nước qua vách ống thận, như vậy làm giảm việc bài tiết nước tiểu bằng thận và làm tăng tỷ trọng của nó. Thiếu ADH dẫn tới việc đái nhiều, có nghĩa là bài tiết từ cơ thể một lượng nước giải lớn, như vậy sẽ dẫn tới rối loạn trao đổi nước. Ngoài ra, vazopressin còn có tác dụng lên vách mao mạch và động mạch nhỏ, tăng huyết áp máu.
Oxitoxin kích thích sự co bóp các cơ trơn của ống dẫn trứng và ruột. Đưa chiết suất của thuỳ sau tuyến yên vào cơ thể chim sẽ gây nên hiện tượng đẻ trứng sớm. Ảnh hưởng của hocmon tuyến giáp trạng lên sinh trưởng và phát triển của cơ thể được chứng minh bằng nhiều thí nghiệm với sự cắt bỏ tuyến này. Nếu cắt nó khi còn non, thì sự lớn lên bị ngừng và sự phát triển cơ thể bị chậm lại; ở chim việc dài ra của xương ống bị ngừng lại đột ngột, các quá trình hoá xương của sụn bị phá huỷ, lông không phát triển. Nhiều tác giả cho rằng, những hocmon này có ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển bào thai và việc tăng cường các quá trình sinh hoá trong mô có liên quan với sự phát triển của tuyến này. Tuyến giáp trạng tiết ra 2 hocmon hoạt tính: tiroxin và triotironin. Hai hocmon nàyđược tạo thành trong tế bào nang của tuyến. Trong máu, globulin và anbumin huyết thanh hấp thụ các phân tử hocmon và đưa đến các mô. Việc kết hợp với protit huyết thanh giữ cho hocmon khỏi bị tác dụng phá huỷ của các men trong mô bào. Hocmon tuyến giáp thể hiện tác dụng đặc biệt lên mô, tự nó chuyển hoá và phân giải để giải phóng iot, iot được đưa ra ngoài cùng nước tiểu hoặc lại được sử dụng để tổng hợp hocmon. Hàm lượng iot trong tuyến giáp của chim cao hơn ở các động vật có vú.
Chức năng sinh lý của hocmon tuyến giáp rất đa dạng. Chúng đảm bảo các hoạt động bình thường của quá trình trao đổi chất, sự phát triển và lớn lên của chim. Người ta nhận thấy rằng hocmon tuyến này hoạt hoá men xúc tiến các phản ứng oxi hoá trong tế bào mô. Khi giảm chức năng tuyến giáp hoặc cắt bỏ, mức trao đổi cơ bản giảm xuống 50 - 60%, sinh nhiệt giảm, cơ thể hạ nhiệt. Việc tăng hoạt động hocmon của tuyến dẫn tới tăng các quá trình oxi hoá, tăng sự sinh nhiệt và tăng nhiệt độ cơ thể. Việc thay đổi chức năng của tuyến giáp dẫn tới việc rối loạn trao đổi protein, đường, mỡ, nước và muối khoáng. Khi thiểu năng tuyến giáp thì giảm sự phân giải protein, làm chậm quá trình oxi hoá đường, giảm hàm lượng lipaza và việc tạo ra cholesterin, hơi tăng việc tích mỡ trong mô. Hoạt động của tuyến giáp thay đổi theo lứa tuổi, trạng thái sinh lý của cơ thể chim, mùa vụ, loài, giống¼
Lượng tiroxin trong máu tăng ở thời kỳ phát triển mạnh của chim non, thời kỳ thay lông thứ nhất. Ở chim đẻ cao sản, lượng tiroxin trong máu cao so với chim thấp sản. Việc tăng tiết tiroxin ở chim lai cao hơn so với các dòng thuần. Khi tuổi tăng lên, chức năng kích thích của tuyến này giảm.
Người ta nhận thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa chức năng điều tiết hocmon của tuyến giáp với hoạt động của các tuyến sinh dục. Sau khi cắt bỏ tuyến giáp chim trống, người ta nhận thấy tinh hoàn bị bé đi và quá trình tạo tinh bị ức chế. Khi tiêm tiroxin sẽ gây nên sự tăng tuyến sinh dục. Nếu đưa một lượng nhỏ hocmon này vào chim mái thì sẽ tăng độ chín của các nang buồng trứng. Liều tiroxin cao sẽ sức chế chức năng buồng trứng, kìm hãm các tế bào trứng chín. Nếu bổ sung nhân tạo các hocmon tuyến giáp vào cơ thể chim thì sẽ gây ra thay lông sớm. Mối liên hệ giữa tuyến giáp và sự thay lông lần đầu tiên đã được xem xét trong thí nghiệm cho chim ăn tuyến giáp tươi hoặc khô. Hiệu quả tăng chức năng tuyến giáp không xuất hiện ngay, thay lông nhân tạo xảy ra sau 7 - 10 ngày, mạnh mẽ trong khoảng 5 - 10 ngày tiếp theo. Lượng hocmon của tuyến giáp cần để tạo ra thay lông phụ thuộc vào mùa trong năm. Người ta nhận thấy ở gà bị cắt bỏ tuyến giáp, sự thay lông tự nhiên bị ngừng lại trong một thời gian dài. Thay lông xuất hiện trong thời gian nhất định trong năm trùng với thay đổi chức năng của tuyến giáp theo mùa.
Ảnh hưởng strees mạnh lên chim (rút ngắn nhanh ngày chiếu sáng, không cho ăn) cũng gây ra thay lông sớm. Khi đó khối lượng và hoạt tính hocmon đều tăng.
Điều khiển chức năng tuyến giáp: ngoài tuyến yên và vùng dưới đồi, còn có cấu trúc lưới và những vùng cấp cao của hệ thần kinh trung ương.
Hoạt tính của tuyến giáp tăng khi nhiệt độ không khí thấp và chuyển chim từ ngày ánh sáng dài sang ngắn. Sự thay đổi quá trình trao đổi chất trong cơ thể khi có tác dụng của những nhân tố stress chính là sự thích nghi và được thực hiện dưới ảnh hưởng của hocmon tuyến giáp. Hoạt động của tuyến giáp cũng phụ thuộc vào hoạt tính chức năng của vỏ thượng thận, tuyến sinh dục và các tuyến nội tiết.
Tuyến cận giáp.
Chức năng chủ yếu của tuyến cận giáp là điều hoà trao đổi canxi và photpho trong cơ thể. Sau khi cắt bỏ tuyến cận giáp, nồng độ photpho tăng nhanh. Thừa parathocmon làm tăng mức canxi trong máu do huy động nó từ xương, mức photpho trong huyết thanh máu giảm xuống. Parathocmon làm giảm nhanh tái hấp thu muối photpho ở thận, và với một lượng lớn chúng được bài tiết cùng nước tiểu, đồng thời tăng bài tiết canxi. Cường năng tuyến cận giáp dẫn tới việc mất nhiều muối khoáng của cơ thể, các xương mỏng và trở nên giòn.
Parathocmon chỉ gây ảnh hưởng tới dạng ion của canxi và photpho, tác dụng của nó không lan rộng đến các muối liên kết với protein ở trong mô, dịch của cơ thể.
Tuyến thượng thận của chim là một khối rắn chắc hình tròn hay hơi dài, màu vàng hoặc nâu đậm, nằm phía trước và hơi thấp ở đầu trên của thận trái và phải.
Vỏ thượng thận tiết ra 2 hocmon: mineralococticoit và glucococticoit. Vic tạo ra chúng bắt đầu từ ngày thứ 11 - 12 khi ấp, khi lượng colesterin và axit ascocbic mà từ chúng tạo nên hocmon cocticoit, tăng nhanh. Ở chim non và trưởng thành, hocmon vỏ thượng thận là steroit. Chúng được chia thành 3 nhóm: glucococticoit, mineralococticoit và hocmon sinh dc (andrensteroit).
Nhóm glucococticoit có cocticosteron, hidrococtizon và coctizon. Tt cả chúng tác dụng lên trao đổi gluxit, protein và lipit. Glucococticoit tăng hàm lượng gluxit trong máu, kích thích quá trình tạo glucoza, đồng thời ức chế việc phân huỷ glucoza, thúc đẩy việc tạo nên glycogen ở gan. Glucococticoit thúcđẩy việc phân huỷ protein và thải nitơ ra khỏi cơ thể, hoạt hoá các tuyến của đường tiêu hoá, kích thích bài tiết axit clohidric, pepsinogen và tripsinogen. Dưới tác dụng của coctizon, hàm lượng lipit trong máu tăng một cách rõ rệt.
Thừa hocmon này dẫn tới giảm khối lượng mô liên kết, limpho và cơ, thay đổi cấu trúc xương.
Glucococticoit ức chế sự phát triển của các quá trình viêm trong cơ thể khi đáp ứng những kích thích, thương tổn và tác dụng của dị ứng nguyên, tham gia vào điều khiển trao đổi muối - nước.
Nhóm mineralococticoit gồm: aldosteron, desoxicocticosteron và hidrococticosteron. Tác dụng chủ yếu của chúng là điều chỉnh hàm lượng các chất điện giải và nước trong cơ thể; Aldosteron tăng bài tiết canxi và photpho cùng với nước tiểu và giảm bài tiết natri clorua và nước. Deroxicocticosteron cũng có tác dụng tương tự như vậy. Hao hụt natri sẽ xảy ra mạnh khi thiếu mineralococticoit, dẫn tới thay đổi đột ngột môi trường bên trong và có thể gây chết.
Vỏ thượng thận thay đổi phản ứng dưới ảnh hưởng của những kích thích khác nhau bên ngoài và bên trong cơ thể. Cơ quá mệt mỏi, quá lạnh hoặc quá nóng, bất kỳ một sự căng thẳng nào (strees) đều làm tăng bài tiết hocmon adrenococticoit (ACTH) ca tuyến yên, dưới ảnh hưởng của nó, vỏ thượng thận đẩy mạnh việc tạo cocticosteroit. Việc rối loạn mối liên hệ thần kinh và nội tiết giữa vùng dưới đồi và tuyến yên sẽ làm ngừng phản ứng lên vỏ thượng thận.
Trong điều kiện nuôi cầm bình thường, việc tiết ACTH từ tuyến yên phụ thuộc vào lượng coctocosteroit trong máu. Việc giảm nồng độ của chúng trong máu sẽ kích thích tuyến yên tiết ACTH.
Nhóm hocmon thứ ba của vỏ thượng thận - hocmon sinh dục: estrogen, androgen và progesteron. Chúng tham gia vào điều khiển phát triển bình thường của cơ và xương, phân hoá các cơ quan sinh dục, mọc lông và thể hiện chức năng sinh dục. Miền tuỷ thượng thận tiết ra 2 hocmon: adrenalin và noradrenalin, chúng làm tăng huyết áp và gây ảnh hưởng lên tim và mạch máu. Cũng như ở động vật có vú, adrenalin làm tăng nhịp tim, co mạch máu ngoại biên, giãn cơ phế quản, giảm co bóp dạ dày và ruột, tăng trao đổi gluxit, tăng phân huỷ glycogen ở gan và đưa glucoza vào máu. Tác dụng tăng đường huyết của noradrenalin thể hiện yếu hơn. Cả hai hocmon này đều gây ảnh hưởng lên trao đổi protein, tăng phân huỷ protein, và đẩy mạnh các quá trình oxi hoá trong cơ thể. Adrenalin kích thích chế tiết ACTH qua tuyến yên, ức chế tiết hocmon tireotropin và chống lợi tiểu. Hệ thần kinh giao cảm kiểm soát sự chế tiết của miền tuỷ tuyến thượng thận.
Các tác nhân stress cùng với việc đưa vào máu một lượng adrenalin lớn sẽ làm giảm sản lượng trứng, ở con trống có sự teo mô tinh hoàn.
Tuyến tuỵ tiết ra hocmon insulin và glucagon Insulin có ý nghĩa lớn trong việc điều khiển trao đổi gluxit. Nó kích thích quá trình biến đổi glucoza thành glucogen ở gan và cơ. Cơ chế tác dụng của hocmon này chủ yếu là tăng tính thẩm thấu của màng tế bào và làm giảm nhẹ việc chuyển glucoza trong tế bào của gan. Cơ tim, cơ vân, cơ trơn và các cơ quan khác. Khi thiếu insulin, tốc độ chuyển glucoza trong tế bào chậm đi 20 lần, hàm lượng đường huyết tăng nhanh, một phần bị đưa ra cùng nước tiểu. Tăng sử dụng glucoza ở tế bào, insulin kích thích quá trình tạo mỡ từ đường. Khi không đủ insulin, việc oxi hoá mỡ mạnh lên và xảy ra hiện tượng tích luỹ các thể xeton trong máu (axeton, axit axetoaxetic và oxi axit béo...) vàđược bài tiết cùng nước tiểu ở dạng muối natri và kali. Khi đó, kiềm dự trữ của cơ thể giảm và pH của máu chuyển sang phía axit.
Hocmon thứ 2 - glucagon kích thích phá huỷ glucogen trong tế bào gan và đưa glucoza vào máu. Tác dụng tăng đường huyết của glucagon là ảnh hưởng nghịch của insulin, giảm đường máu. Ngoài ra, glucagon làm tăng oxi hoá glucoza của mô và tăng ngưỡng của thận đối với natri, kali và photphat.
Mức độ điều tiết insulin và glucagon được điều chỉnh chủ yếu bằng chính hàm lượng đường huyết. Tăng glucoza sẽ kích thích sản xuất insulin, giảm glucagon. Hocmon sinh trưởng của tuyến yên và androgen thúcđẩy hoạt động của đảo tuỵ và tăng chế tiết insulin và glucagon.
Tuyến sinh dục ngoài chức năng sinh sản, còn thực hiện vai trò của cơ quan nội tiết, tiết ra các hocmon sinh dục, ảnh hưởng lớn lên hình thái học và chức năng của cơ quan sinh dục, sự hình thành các dấu hiệu sinh dục thứ cấp, các quá trình phát triển và sinh trưởng của cơ thể. Tất cả các hocmon được tạo ra ở tuyến sinh dục con trống được gọi là androgen, còn ở con mái- oestrogen.
Nhóm androgen có những hocmon: testosteron, androsteron, dehidroandrosteron... Chất có hoạt tính mạnh nhất là testosteron. Đã thu được chất nhân tạo như testosteron: metiltestosteron có hoạt tính mạnh gấp 6 lần testosteron; testosteron-propionat là hocmon hoạt tính nhất từ androgen.
Chức năng của androgen rất đa dạng. Nó ảnh hưởng lên sự phát triển của các cơ quan sinh dục, các dấu hiệu sinh dục thứ cấp của chim, điều khiển trao đổi chất, kích thích tổng hợp protein và phát triển mô, thúc đẩy việc giữ natri, kali, clorua và photphat trong cơ thể, tăng tạo hồng cầu và tăng tuần hoàn máu trong mô. Dưới ảnh hưởng của androgen, ở con đực phát triển các dấu hiệu sinh dục thứ cấp: mào và tích, màu lông (bộ cáo cưới)... Sau khi cắt buồng trứng, lông con mái trở nên giống lông con trống, mào, cựa phát triển. Nếu chim đã bị thiến mà cấy tuyến sinh dục của con khác vào thì xuất hiện những dấu hiệu và tính cách của giới mới đưa vào. Con trống trở nên giống con mái, còn con mái thì có những tính cách giống con trống.
Oestogen được tạo thành trong buồng trứng trái của chim trong tế bào vỏ và mô gian chất. Phần còn lại của buồng trứng phải không thực hiện chức năng nội tiết. Nhóm oestogen gồm có: oestogen (folliculin), oestradiol, oestriol,... Oestradiol có tác dng mạnh nhất. Một lượng nhỏ androgen và hocmon thứ hai - progesteron cũng được tạo ra ở buồng trứng. Các tế bào gian chất sản xuất androgen.
Oestrogen kiểm tra quá trình phát triển của cơ quan sinh dục và sinh sản, hình thái và các dấu hiệu sinh dục thứ cấp, thể hiện "tính dục" của chim. Ngoài ra, oestrogen còn gâyảnh hưởng lên trao đổi chất, kích thích tổng hợp protein và sự phát triển của xương, tác dụng giữ natri, canxi, photpho và nước trong cơ thể. Oestrogen kiểm tra việc chế tiết phức tạp của các tuyến ở ống dẫn trứng, nơi tạo ra vỏ trứng. Sự phụ thuộc các dấu hiệu sinh dục thứ cấp vào oestrogen ở chim mái thể hiện rõ trong thí nghiệm cắt bỏ buồng trứng. Những chim mái bị thiến thay đổi màu lông và trở nên gần giống với lông con trống: cử chỉ trở nên giống như những con trống bị thiến. Việc đưa oestrogen vào con mái chưa trưởng thành hoặc bị thiến làm hồi phục lại những dấu hiệu sinh dục thứ cấp, phản xạ sinh dục và những phản xạ đã mất.
Ở động vật có vú, progesteron do thể vàng tiết ra, ở chim hocmon này được tổng hợp ở buồng trứng, mặc dù như đã biết, thể vàng ở đó không được rạo ra. Luteinostimulin của tuyến yên là chất kích thích tạo ra progesteron, kiểm tra rụng trứng và đẻ trứng của chim.
Tăng hàm lượng progesteron trong máu có thể gây nên rụng trứng thêm trong khi ở tử cung đang có trứng. Việc tiết oxitoxin của thuỳ sau tuyến yên phụ thuộc vào mức progesteron trong máu. Oxitoxin được tiết ra trước khi đẻ trứng, khi lượng progesteron trong máu giảm đi.
1.2.9. Hệ Sinh dục
Cũng như loài bò sát, chim thụ tinh trong, đẻ trứng. Ở chim, trong quá trình tiến hoá, cùng với việc tăng kích thước trứng xảy ra việc thoái hoá phần bên phải của hệ sinh dục cái. Chỉ trừ có loài đà điểu Kiwi là cả buồng trứng bên phải và bên trái cùng phát triển hài hoà và có đầy đủ chức năng.Ở con đực, đôi tinh hoàn nằm trong khoang cơ thể. Sự phát triển phôi xảy ra trong trứng tương đối lớn, được bảo vệ bằng một loại vỏ cứng. Chim thành thục tương đối sớm và khả năng đẻ cao. Những phẩm chất này chịu ảnh hưởng của công tác giống, nuôi dưỡng và chăm sóc tốt. Sự hiểu biết về những đặc tính hình thái và sinh lý của cơ quan sinh dục có ý nghĩa lớn trong nghiên cứu và thực tiễn nhằm tăng hiệu quả chăn nuôi.
a. Sinh lý sinh dục con mái
Sự hình thành mầm của tuyến sinh dục cái xảy ra vào thời kỳ đầu của sự phát triển phôi. 4 - 5 ngày tuổi. Tới ngày ấp thứ 7- 9, ở buồng trứng đã thể hiện sự không đối xứng, buồng trứng bên phải ngừng phát triển và thoái hoá dần. Buồng trứng trái tiếp tục phát triển, phân ra thành lớp vỏ và lớp tuỷ. ở vỏ xảy ra quá trình sinh sản của các tế bào sinh dục đầu tiên - noãn bào. Đến ngày ấp thứ 12, ống dẫn trứng được phân thành loa kèn, phần tiết lòng trắng và tử cung.


Hình 1.7. Sơ đồ hệ sinh dục của chim mái
Buồng trứng nằm ở phía trái của khoang bụng, về phía trước và hơi thấp hơn thận trái, được đỡ bằng các nếp gấp của màng bụng từ trên xuống. Kích thước và hình dạng buồng trứng phụ thuộc vào trạng thái chức năng và tuổi của chim. Chim trong thời kỳ đẻ mạnh, buồng trứng có hình chùm nho, khối lượng đạt 55g, vào thời kỳ thay lông, khối lượng buồng trứng giảm còn 5g. Ở đà điểu, tổng chiều dài của ống dẫn trứng khoảng 118cm và đường kính là 3 cm. Lòng đỏ trên buồng trứng có đường kính từ 1-8 cm.
Buồng trứng có miền vỏ và miền tuỷ. Bề mặt vỏ được phủ bằng một lớp biểu mô có lớp tế bào hình trụ hay lăng trụ thấp. Dưới chúng có 2 lớp nang với các tế bào trứng. Nằm ở lớp ngoài là những nang nhỏ có đường kính đến 400 micron, trong lớp sâu hơn có những nang lớn hơn với đường kính 800 micron hay to hơn.
Chất tuỷ được cấu tạo từ mô liên kết, có nhiều mạch máu và dây thần kinh. Trong chất tuỷ có những khoang được phủ bằng biểu mô dẹt và tế bào kẽ.
Sự tạo trứng
Sự phát triển tế bào trứng có 3 thời kỳ: sinh sản, sinh trưởng và chín... Quá trình phát triển tế bào sinh dục cái xảy ra không chỉ là sự thay đổi cấu trúc và kích thước của nó mà còn thay đổi cả bộ máy thể nhiễm sắc của nhân tế bào.
Thời kỳ sinh sản xảy ra trong quá trình phát triển phôi và kết thúc khi gà nở. Như đã kể trên, do kết qủa của rất nhiều lần phân chia liên tiếp, số lượng noãn nguyên bào trong buồng trứng đạt đến hàng ngàn chiếc, nhưng phần lớn các noãn bào này bị thoái hoá nên đến khi thành thục, số lượng của chúng bị giảm đi rất nhiều. Khác với tế bào sinh trưởng, trong noãn bào có nhân to với hạt nhân nhỏ và thể nhiễm sắc, không có trung thể. Sau khi kết thúc quá trình sinh sản, các tế bào sinh dục được hình thành gọi là noãn bào cấp I. Thời kỳ sinh trưởng được chia thành thời kỳ sinh trưởng nhỏ và thời kỳ sinh trưởng lớn. Thời kỳ sinh trưởng nhỏ kéo dài từ khi chim nở đến khi thành thục sinh dục. Đầu tiên là sự phát triển chậm của noãn bào cấp I. Thời gian này, nhân vẫn nằm ở trung tâm tế bào trứng, sau đó tương bào được chuyển sang bên cạnh và tạo đĩa phôi. Lòng đỏ được đắp vào bởi những lớp màu sáng và màu sẫm. Ở tâm có lòng đỏ sáng hình phễu, từ nó có vệt nhỏ đi ra rìa tế bào trứng - đó là rãnh lòng đỏ. Phía trên lòng đỏ là đĩa phôi. Các tế bào nang xung quanh noãn bào đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành lòng đỏ.
Thời kỳ sinh trưởng lớn dài 4 - 13 ngày và đặc trưng bằng sự lớn rất nhanh của lòng đỏ. Trong thời gian này lòng đỏ tích lỹ 90 - 95% vật chất, thành phần của nó gồm protein, photpholipit, mỡ trung tính, các chất khoáng và vitamin. Đặc biệt, lòng đỏ được tích luỹ mạnh nhất ở ngày thứ 9 đến ngày thứ 4 trước khi trứng rụng. Vào thời kỳ này trên bề mặt tế bào trứng hình thành lớp vỏ lòng đỏ đàn hồi với một hệ mao mạch phát triển, chúng mang chất dinh dưỡng đi vào lòng đỏ làm cho nó lớn lên rất nhanh. Việc tạo lòng đỏ có tính chu kỳ. Lòng đỏ sẫm được tích luỹ trong cả ngày đến nửa đêm, khi nồng độ cảoten trong máu còn cao; còn lòng đỏ sáng - trong phần còn lại của đêm, khi lượng sắc tố trong máu đã giảm đi rất nhiều. Việc tăng quá trình sinh trưởng của tế bào trứng là do ảnh hưởng của foliculin, việc chế tiết nó ở buồng trứng tăng đồng thời với lúc bắt đầu thành thục sinh dục. Vào cuối thời kỳ phát triển của tế bào trứng, giữa vỏ lòng đỏ và thành nang xuất hiện khoang gần lòng đỏ, chứa đầy limpho. Trongđó noãn bào bơi tự do và các cực của nó nằm theo cực hướng tâm: cực anivan (cùng đĩa phôi) hướng lên trên, còn cực thực vật xuống dưới. Noãn bào đã hình thành chính là lòng đỏ. Màu của lòng đỏ phụ thuộc vào các sắc tố trong máu: carotenoit, carotin và xantofil. Màu đậm nhất của lòng đỏ thường gặp ở chim được ăn đầy đủ carotenoit trong thức ăn.
Thời kỳ chín của noãn bào: xảy ra 2 lần phân chia liên tiếp của tế bào sinh dục, số nhiễm sắc thể giảm đi 2 lần, vì vậy sự phân chia này được gọi là giảm nhiễm hay phân bào giảm nhiễm. Trước khi bắt đầu phân chia chia lần thứ nhất, trong nhân của noãn bào cấp I (noãn nguyên bào) xảy ra việc kéo dài nhiễm sắc thể và số lượng của chúng tăng gấp đôi. Nhân tiến dần đến bề mặt của noãn bào. Những nhiễm sắc thể giống nhau xích gần nhau để tạo thành từng cặp, còn màng nhân biến mất. Kết quả lần phân chia thứ nhất tạo thành 2 tế bào: noãn bào cấp II và tiểu thể thứ nhất (thể cực thứ nhất) mà trong hạt nhân của chúng có bộ nhiễm sắc thể 1n. Quá trình này được hoàn thành ở buồng trứng trước khi trứng rụng. Sự phân chia lần thứ hai ở phễu của ống dẫn trứng. Khi đó từ noãn bào cấp II tạo nên tế bào trứng chín và tiểu thể thứ hai (cực cầu) cũng có bộ nhiễm sắc thể đơn bội 1n. Như vậy, do kết quả phân chia giảm nhiễm, trong tế bào trứng chín có một nửa số nhiễm sắc thể. Tiểu thể thứ nhất có thể phân chia làm hai cực cầu khác. Các cực cầu không phát triển và dần dần bị tiêu biến.
Quá trình thoát khỏi buồng trứng của tế bào trứng chín gọi là sự rụng trứng. Trong nang đã chín, áp suất thẩm thấu của dịch nang tăng lên, dẫn tới sự phá vỡ vách nang tại vùng lỗ thở (đai trứng - stigma) - chỗ đối diện với đĩa phôi, vách nang mỏng đi do những thay đổi thoái hoá dưới tác dụng của các hocmon, nên nó bị vỡ ra. Có ý kiến khác cho rằng, lỗ thở bị kéo ra bằng các sợi cơ riêng, khi đó các mạch máu ở vùng lỗ thở co lại và nang vỡ không bị chảy máu. Nang vỡ trong khoảnh khắc. Qua kẽ nứt mới được tạo ra, tế bào trứng rơi vào loa kèn hay là phễu của ống dẫn trứng. Do chuyển động liên tục của thành phễu mà phễu thu được trứng ở đây. Nếu có tinh trùng thì việc thụ tinh tế bào trứng sẽ xảy ra ở ngay trên thành phễu. Sự rụng trứng ở chim xảy ra một lần trong ngày. Trứng bị giữ lại trong ống dẫn trứng làm ngừng trệ sự rụng trứng tiếp theo. Nếu lấy trứng ra khỏi tử cung, thì cũng không làm tăng nhanh sự rụng trứng được. Tính chu kỳ của sự rụng trứng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: điều kiện nuôi dưỡng và chăm sóc, lứa tuổi và trạng thái sinh lý của chim... việc nuôi dưỡng kém, không đủ ánh sáng và nhiệt độ không khí trong chuồng cao cũng làm chậm sự rụng trứng và đẻ trứng. Người ta đã biết được mối liên quan giữa việc rụng trứng và chế độ ngày chiếu sáng. Nếu nuôi chim ban ngày trong nhà tối, còn ban đêm cho ánh sáng nhân tạo, thì sự rụng trứng và đẻ trứng sẽ chuyển sang ban đêm.
Sự rụng trứng ở chim chịu sự điều khiển của các nhân tố hocmon. Các hocmon FSH và LH kích thích sự sinh trưởng và sự chín của các tế bào sinh dục trong buồng trứng. Phần mình, các tế bào nang tiết estron trong khi trứng rụng, kích thích hoạt động của ống dẫn trứng. Estron ảnh hưởng lên tuyến yên, ức chế việc tiết FSH, như vậy sẽ làm chậm việc chín tế bào trứng ở buồng trứng. Hocmon LH điều khiển việc rụng trứng của chim. Tuyến yên ngừng tiết nó khi trong ống dẫn trứng có trứng, do đó ức chế sự rụng trứng của tế bào trứng chín tiếp theo. LH chỉ được tiết vào buổi tối, sự chiếu sáng làm ngừng trệ việc tiết nó, do vậy, sự rụng trứng sẽ bị ngừng lại. Người ta cho rằng ở chim từ lúc bắt đầu tiết LH đến lúc rụng trứng kéo dài khoảng 6 - 8 giờ. Vì vậy việc chiếu sáng thêm vào các giờ buổi chiều và tối làm chậm việc tiết LH, do đó làm chậm quá trình rụng và đẻ trứng 3 - 4 giờ. Tăng giờ chiếu sáng lên 14- 17 giờ/ ngày làm tăng sản lượng trứng của chim mái nhưng không nên tăng vào buổi chiều và buổt tối là vì vậy.
Chức năng của ống dẫn trứng
Ống dẫn trứng có hình ống, ở đó xảy ra việc thụ tinh và hình thành vỏ trứng. Kích thước ống dẫn trứng thay đổi theo lứa tuổi và tình trạng hoạt động của hệ sinh dục. Khi bắt đầu thành thục sinh dục, ống dẫn trứng là một ống trơn, thẳng có đường kính như nhau trên toàn bộ ống. Sau khi đẻ quả trứng đầu tiên, ống dẫn trứng của chim có chiều dài 35-40 cm. Vào thời kỳ đẻ trứng mạnh, chiều dài của nó tăng tới 50cm. Ở gia cầm thành thục sinh dục, ống dẫn trứng có 5 phần sau: phễu, phần lòng trắng, cổ, tử cung và âm đạo.
Phễu - phần mở rộng của phía đầu ống dẫn trứng. Bề mặt niêm mạc phễu xếp nếp, không có tuyến.
Chuyển động nhu mô của phễu có khả năng bắt lấy tế bào trứng khi nó rụng xuống từ buồng trứng. Lòng đỏ nằm ở phễu khoảng 15-29 phút. Lớp lòng trắng đầu tiên được bao bọc xung quanh tế bào trứng tiết ra ở cổ phễu. Lòng trắng này đặc, quấn ngay lòng đỏ. Khi đi qua phần đầu của ống dẫn trứng, lòng đỏ lăn chậm trong lòng cổ phễu, làm cho lớp lòng trắng đặc xung quanh mình nó vặn xoắn lại, tạo ra 2 cuộn dây chằng ở 2 đầu lòng đỏ, có tác dụng giữ cho lòng đỏ luôn nằm ở tâm trứng. Trên các nếp nhăn của phễu thường có rất nhiều tinh trùng, chúng sống nhờ một phần dinh dưỡng trong dịch ở các nếp này và thụ tinh ngay khi gặp lòng đỏ vừa rụng xuống.
Phần tạo lòng trắng - là phần dài nhất của ống dẫn trứng, khi gà đẻ mạnh, phần này dài đến 30 - 50cm. Niêm mạc của ống có nhiều nếp xếp dọc. Trong đó có nhiều tuyến hình ống, cấu tạo giống như tuyến ở cổ phễu. Chất tiết của tuyến là lòng trắng, bao quanh lòng đỏ, chúng gồm nhiều lớp: phía trong đặc, phía ngoài loãng.
Cổ (eo) là phần hẹp lại của ống dẫn trứng, dài 8cm. Niêm mạc có những nếp xếp nhỏ. ở đó lòng trắng loãng được bổ sung thêm, đồng thời các tuyến ở eo tiết ra các sợi chắc, đan vào nhau để hình thành 2 lớp màng chắc dính sát vào nhau, chỉ tách nhau ở đầu lớn của trứng, đó là màng dưới vỏ cứng. Hình dạng của trứng được quyết định ở đây.
Dạ con là đoạn tiếp theo của eo, đó là phần mở rộng , thành dày, chiều dài 10 - 12cm. Các nếp nhăn của niêm mạc phát triển mạnh, và xếp theo hướng ngang và xiên. Tuyến của vách dạ con tiết ra chất dịch lỏng, bổ sung vào lòng trắng, chúng thấm qua các màng dưới vỏ trứng vào lòng trắng. Trong thời gian trứng ở dạ con, khối lượng trứng tăng gần gấp đôi. Vỏ trứng được hình thành do chất tiết của tuyến dạ con. Vỏ trứng được cấu tạo từ cốt hữu cơ và chất trung gian. Cốt được hình thành bằng những sợi protein dạng colagen nhỏ chồng chéo lên nhau. Chất trung gian cấu tạo từ những muối canxi ở dạng hợp nhất không tan - canxi cacbonat (99%) và canxi photphat (1%). Sự tổng hợp chất vôi được tiến hành trong suốt thời gian trứng nằm ở dạ con (18 - 20 giờ), lúc này bề mặt của các màng dưới vỏ dính chặt vào thành dạ con, do đó các màng này giãn ra. Trương lực của cơ dạ con tăng đồng thời, nó tiếp xúc chặt với trứng và tiết chất khoáng lên bề mặt màng vỏ trứng.
Đầu tiên lớp vỏ ngoài được tạo thành, được cấu tạo từ những nhú, đầu trên của nhú cắm sâu vào bề mặt ngoài của lớp dưới vỏ, còn phần chân rộng thì hướng vào vách dạ con. Nhú cấu tạo từ tinh thể canxi cacbonat (canxita). Lớp nhú chiếm 1/3 độ dày vỏ. Từ bên ngoài, lớp nhú được phủ một lớp màng bền chắc. Nền móng của lớp này là các sợi collagen được tạo bởi chất dịch của tuyến ở phần trước dạ con. Phần trung gian giữa các sợi chứa muối canxi, làm cho vỏ trứng được chắc.
Khoảng không gian của các nhú không chứa chất khoáng, ở đây có các lỗ khí, các lỗ này xuyên qua độ dày bền chắc và được mở ra trên bề mặt của vỏ trứng. Số lượng các lỗ phù hợp với số lượng lỗ ống của tuyến dạ con. Các lỗ phân bố trên bề mặt vỏ trứng không đều: phần nhiều là tập trung trên đầu tù của trứng, vùng buồng khí và ít hơn cả là ở đầu nhọn của trứng. Trong một vỏ trứng gà có tới 8 nghìn lỗ khí. Tuyến dạ con còn sản xuất ra các sắc tố làm cho vỏ trứng có màu khác nhau.
Men cacbonic anhydraza và photphataza kiềm tham gia tích cực vào trong quá trình hình thành vỏ trứng, Cacbonic anhydraza xúc tác vào sự hình thành anion cacbonat từ axit cacbonic và nước. Phophataza kiềm xúc tác quá trình chuyển ion canxi để tổng hợp các chất vô cơ của vỏ. Người ta đã luận rằng ở chim đẻ, trong biểu mô dạ con chứa một lượng cacbonnic anhydraze nhiều hơn hẳn ở chim không đẻ. Các chất ức chế cacbonnic anhydraze phá huỷ quá trình hình thành vỏ trứng... Nếu thừa chất đó thì trứng đẻ ra không có vỏ.
Âm đạo là đoạn cuối cùng của ống dẫn trứng. Từ dạ con, âm đạo được tách ra bằng phần thu hẹp cổ tử cung, nơi đó có van cơ. Phần cuối cùng của âm đạo được mở ra và đi vào đoạn giữa ổ nhớp, gần niệu quản trái. Âm đạo dài 7 - 12 cm. Niêm mạc nhăn, không có tuyến. Lớp biểu mô của âm đạo sản xuất ra dịch tiết, tham gia vào sự hình thành lớp màng trên vỏ, lớp cơ phát triển tốt, nhất là lớp cơ vòng, nhờ sự co bóp của lớp cơ này mà quả trứng được đẩy ra ngoài qua lỗ huyệt.
Động tác đẻ trứng là quá trình phản xạ phức tạp. Những thụ cảm niêm mạc âm đạo được kích thích bằng quả trứng nằm trong nó. Những xung động từ cơ quan thụ cảm làm cho cơ âm đạo và dạ con co bóp mạnh. Nhờ có co bóp đồng thời của cơ dạ con và cơ âm đạo nên trứng được đẩy qua ổ nhớp mà không chạm vào vách, nên bề mặt vỏ trứng mới không bẩn.
Trong sự điều chỉnh đẻ trứng có sự tham gia của hocmon được hình thành trong nang trứng. Động tác đẻ trứng nằm dưới sự điều khiển của các vùng cao cấp của hệ thần kinh trung ương. Thay đổi liên tục điều kiện nuôi dưỡng (thay đổi chuồng, chuyển gà từ nhà này sang nhà khác, thay đổi ché độ nuôi dưỡng...) có thể làm cho chim ngừng đẻ một thời gian dài.
Chu kỳ đẻ trứng. Đẻ trứng là bản năng của quá trình sinh sản. Chim rừng thể hiện rõ hoạt tính sinh dục có chu kỳ theo mùa và do đó chu kỳ đẻ trứng phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh. ở một số giống chim nghiệp cao sản, tính đẻ trứng theo mùa không còn nữa. Điều chỉnh chế độ nuôi dưỡng tốt thì duy trì được sản lượng trứng cao trong thời gian dài. Chim cút cao sản có thể đẻ trên 300 trứng trong một năm.
Phần lớn chim cút đẻ mỗi ngày 1 quả, không nghỉ trong một thời gian có thể dài hoặc thời gian ngắn. Thời gian chim cút đẻ trứng liên tục, không nghỉ gọi là chu kỳ đẻ trứng. Các chu kỳ có thể dài hoặc ngắn. Thời gian kéo dài của chu kỳ phụ thuộc vào thời gian hình thành 1 quả trứng. Ở chim cút đẻ, thời gian cần thiết để hình thành 1 quả trứng là 24 đến 28 giờ (trung bình là 25 giờ). Nếu trứng được hình thành dưới 24 giờ thì gà đẻ liên tục (ngày một) và chu kỳ đẻ trứng có thể kéo dài (4 - 6 trứng và hơn). Gà đẻ kỷ lục có thể đẻ tới trên 200 trứng trong một chu kỳ. Nếu như trứng được hình thành trên 24 giờ thì gà sẽ đẻ cách nhật. Sự kéo dài quá trình hình thành trứng ở gà đẻ sẽ làm cho trứng nằm trong dạ con lâu. Nếu như vào nửa ngày thứ hai mà không có hiện tượng rụng trứng, thì chim cút sẽ đẻ trứng cách nhật. Ví dụ, quả trứng hình thành trong 26 giờ thì trứng đẻ vào những ngày sau sẽ lệch sang 8, 10, 12, 14 giờ của ngày, và sau đó là cách nhật. Như vậy, thời gian cần thiết để hình thành quả trứng càng nhiều thì chu kỳ đẻ trứng càng ngắn và càng kéo dài thời gian cách nhật. Ngược lại, chu kỳ càng dài thì thời gian nghỉ càng ngắn.
Chu kỳ đẻ trứng của chim cút đẻ gồm chu kỳ ổn định và không ổn định. Chim cút đẻ trứng tốt có chu kỳ ổn định và kéo dài. Những chim cút đẻ kém chu kỳ thường ngắn, còn thời gian giữa các chu kỳ thì dài, cho nên sản lượng trứng thấp. Chim cút đẻ tốt trong một năm cho tới trên 300 quả.
Bản năng ấp trứng liên quan đến khả năng đẻ trứng và phản xạ không điều kiện. Ở chim cút đã mất bản năng ấp trứng nên có năng suất trứng cao Vào thời điểm đẻ trứng, tuyến yên tiết oxitoxin tăng lên, này kích thích co bóp các cơ trơn của thành ống dẫn trứng.
Toàn bộ các quá trình sinh sản được điều khiển bởi hoạt động của tuyến yên và vùng dưới đồi thị. Tỷ lệ đẻ của chim phụ thuộc vào nhiều yếu tố: loài, giống, lứa tuổi, trạng thái sinh lý, đặc điểm cá thể, điều kiện ngoại cảnh, điều kiện nuôi dưỡng¼
Trong các yếu tố môi trường thì ánh sáng có ảnh hưởng nhất đến sự phát triển và chức năng của cơ quan sinh dục con mái. Kéo dài sự chiếu sáng khác nhau thì kích thích hoặc ức chế hoạt tính sinh dục của chim. Nuôi chim con trong điều kiện ngày chiếu sáng dài hơn thì thời gian thành thục sinh dục rút ngắn đi. Dùng thêm ánh sáng nhân tạo, sự thành thục sinh dục ở chim sẽ sớm hơn. Nhưng nếu sự thành thục sinh dục quá sớm thì chim có khối lượng bé và sẽ đẻ trứng bé. Khi sự thành thục sinh dục muộn thì chim đẻ trứng to hơn. Trong điều kiện chăn nuôi chim công nghiệp, sự điều chỉnh chế độ ánh sáng và dinh dưỡng cần được hết sức chú ý sao cho chim đẻ đúng tuổi, khi cơ thể đã tương đối hoàn chỉnh và có khối lượng chuẩn, nhằm tăng năng suất sinh sản.
Tập tính sinh sản của bồ câu
Sự thành thục sinh dục của chim bồ câu xảy ra từ lúc 3 tháng rưỡi cho tới 7 - 8 tháng tuổi, phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
Về giống: nhìn chung những giống chim bồ câu có tầm vóc nhỏ đẻ sớm hơn những giống to hơn. - Mùa sinh nở: những con chim bồ câu non nở vào mùa xuân thành thục sinh dục sớm hơn.
- Có sự khác nhau khá nhiều giữa những cá thể trong cùng một giống.
Tập tính sinh sống của chim bồ câu thu hút sự chú ý của con người: chim bồ câu sống thành từng đôi; có tổ riêng, được con trống bảo vệ và những tập tính "yêu đương" đằm thắm và thuỷ chung.
Sự đẻ trứng
Sau khi đã ghép đôi, từ 8 tới 12 ngày sau, chim câu mái đẻ quả trứng đầu tiên. Thông thường chim mái đẻ 2 trứng/ lứa, với khoảng thời gian đẻ trứng thứ nhất đến trứng thứ hai là 44 giờ. Hiếm khi chim mẹ chỉ đẻ một trứng và có thể hiếm hơn nữa là đẻ 3 trứng. Chim bồ câu mái đẻ quanh năm.
Theo số liệu của Viện chăn nuôi quốc gia, mỗi năm một cặp chim bồ câu sinh sản được 17,73 trứng; với tỷ lệ nở là 88% thì sẽ có 15,6 chim bồ câu sơ sinh. Khoảng cách đẻ giữa hai trứng thứ nhất và thứ hai là 36 giờ và khoảng cách của lứa thứ nhất và lứa thứ hai là 40 ngày (từ 32 đến 49 ngày). Tuy nhiên, những chỉ số sinh sản nêu trên có thể thay đổi theo mùa, chế độ chiếu sáng, sự dinh dưỡng¼
Theo Bernard Lardeur, khoảng cách giữa 2 trứng của một con chim bồ câu mái trung bình là 44 giờ.
Vài giờ trước khi đẻ, ống dẫn trứng và lỗ huyệt con mái đều phồng to ra. Có những cơn co thắt ở chim mái mà nó không kiểm soát được. Vài phút trước lúc trứng đẻ ra, chim mái như bị tê liệt và nằm yên một chỗ.
Chim bồ câu đẻ trải dài trong năm, lứa nọ tiếp lứa kia, khoảng cách giữa hai lứa đẻ xấp xỉ 40 ngày, mỗi năm chim đẻ khoảng 9 lứa, được 16 - 18 trứng; tỷ lệ trứng không phôi là 5 - 10%; tỷ lệ ấp nở 80 - 90%. Như vậy trong những điều kiện quản lý chăn nuôi hợp lý, một cặp chim câu bố mẹ có thể nở ra 12 - 14 chim con, đây là hiệu suất chăn nuôi khá cao.
Trong những trại chim bồ câu quy mô lớn hoặc ở những trại nuôi thích nghi những giống chim bồ câu chim con mới nhập nội thì hiệu quả sinh sản chưa cao: chỉ 7 - 8 chim con ra ràng/ một cặp bố mẹ trong 1 năm. Nhưng với thời gian thích nghi và kỹ thuật chăn nuôi ngày một nâng cao, hiệu quả sinh sản sẽ được nâng lên.
Sau khi cặp đôi, chim thường đẻ quả thứ nhất vào buổi chiều, khoảng 5 - 7 giờ tối. Quả trứng đầu tiên thường nhỏ hơn các trứng sau. Trứng "so" thường có hình dáng chưa hoàn chỉnh, và có các đốm lạ; nếu được thụ tinh thì vấn ấp nở bình thường.
Sau 36 - 48 giờ, chim mái đẻ quả trứng thứ hai. Đôi khi chim ấp ngay sau khi đẻ quả trứng đầu tiên, do đó quả trứng thứ nhất sẽ nở trước quả thứ hai 36 giờ. Thường con chim nở trước sẽ có kích thước gấp đôi chim con nở sau do nó khoẻ hơn sẽ ăn nhiều hơn, chim con thứ hai dễ bị chèn ép, nếu không can thiệp kịp thời thì con chim bé này dễ bị chết hoặc còi cọc. Để ngăn ngừa hiện tượng này, ta nên lấy quả trứng đẻ trước ra khỏi tổ, và sẽ trả lại tổ sau khi chim mẹ đẻ xong quả trứng thứ hai. Nên chú ý cất giữ trứng ở nơi mát, tối, trên giấy mềm, tránh dập vỏ.
b. Sinh lý sinh dục con trống
Cơ quan sinh dục của chim trống gồm tinh hoàn, mào tinh hoàn, ống dẫn tinh và cơ quan giao cấu (bộ phận này khá phát triển ở thuỷ cầm, đà điểu).
Tinh hoàn là cơ quan đôi, hình ôvan hoặc hình hạt đậu, màu trắng ngà, nằm trong khoang
bụng, ở vị trí trước thận.
Tinh hoàn được bọc một lớp màng trắng, từ lớp màng này ăn sâu vào là những sợi liên kết yếu. Những ống sinh tinh gấp khúc nối với nhau, tạo thành mạng lưới dày. Những phần riêng biệt của ống sinh tinh hơi phình to. Ở đây diễn ra sự hình thành tế bào sinh dục. Trên bề
mặt cắt ngang của ống gấp khúc, ta thấy lớp ngoài cùng là mô liên kết hình sợi, mô này tạo ra
màng đáy. Bên trong nó có 5 - 6 lớp tế bào tạo thành độ dày thành ống. Giữa các lớp đó có những tế bào hình chóp - tế bào sertoly, chân những tế bào này nằm ở màng đáy, còn đỉnh của chúng hướng vào giữa ống. Những tế bào này đảm nhiệm chức năng dinh dưỡng, giữa chúng có tế bào tinh trùng ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Gần màng đáy, ống sinh tinh là
nguyên bào tinh (spermatogonium), trên nó là tinh bào sơ cấp (cấp I) và tinh bào thứ cấp (cấp II), sau đó là tiền tinh trùng và tinh trùng. Tinh trùng trưởng thành xâm nhập vào ống dẫn tinh, từ đó vào mào tinh hoàn và vàoống dẫn tinh.
Mào tinh hoàn của chim phát triển yếu, một số lượng lớn ống dẫn từ mạng lưới tinh hoàn ăn sâu vào đó. Những ống dẫn nhỏ này tạo thành ống dẫn, là nơi bắt đầu của ống dẫn tinh. Trong mào tinh hoàn, tinh trùng tiếp tục hoàn thiện và tăng thêm khả năng thụ tinh của chúng. Tinh dịch được hình thành ở những ống gấp khúc trong tinh hoàn. Nó tạo ra môi trường cần thiết để đảm bảo hoạt động sống của tế bào sinh dục.
              
Hình 1.8. Sơ đồ cấu tạo cơ quan sinh dục của con trống
Ống dẫn tinh có dạng hình ống, nhỏ, gấp khúc, thành ống cấu tạo bởi lớp niêm mạc, cơ và thanh mạc. Ống dẫn tinh nối với ống dẫn của mào tinh hoàn và vào tận phần giữa của ổ nhớp. Phần cuối cùng ống dẫn tinh là chỗ phình to hình bong bóng. Đây là nơi tích tụ tinh dịch. Trong huyệt, ống dẫn tinh được kết thúc bằng những gờ nhỏ nằm ở phía ngoài ống dẫn nước tiểu. Cấu tạo của ống dẫn tinh thay đổi phụ thuộc vào trạng thái chức năng của bộ máy sinh dục. Trong thời gian hoạt động sinh dục, ống dẫn tinh to ra, thành ống dày lên, tăng số lượng gấp khúc.
Cơ quan giao cấu của bồ câu không phát triển. Nó chỉ là chỗ phình hình bong bóng của ống dẫn tinh, nó nở to khi có kích thích sinh dục. Ngoài ra, khi tinh hoàn hoạt động, còn có sự tham gia của những nếp nhăn limpho và những thể ống, nằm ở tận cùng của ống dẫn tinh. Khi giao cấu, ổ nhớp con trống áp sát với lỗ huyệt con mái. Lúc này âm đạo được bộc lộ ra và tinh trùng được phóng vào lỗ huyệt của con mái.
Ở bồ câu, sự phát triển của cơ quan sinh dục đực xảy ra chủ yếu vào tuổi từ 3 tháng rưỡi tới 5 tháng tuỳ theo giống và mùa. Các cơ quan sinh dục bắt đầu hoạt động và có thể nhận biết rõ từ lúc 4,5 đến 5 tháng.
Cũng như con mái, cơ quan sinh dục chim bồ câu trống giảm về kích cỡ và giảm sự hoạt động trong thời kỳ ấp trứng và sản sinh "sữa" diều để nuôi con. Và vào mùa sinh sản, cơ quan sinh dục phát triển trở lại.
Sự tạo tinh trùng
Quá trình phát triển tế bào sinh dục đực được chia làm 4 giai đoạn: sinh sản, sinh trưởng, trưởng thành và chín. Cũng như quá trình hình thành trứng, trong tất cả các giai đoạn này có sự cấu trúc lại thể nhiễm sắc của nhân tế bào sinh dục và giảm số lượng nhiễm sắc thể. Do đó trong tinh trùng cũng như trong tế bào trứng đều có bộ nhiễm sắc thể đơn bội.
Các giai đoạn tạo tinh trùng của chim phát triển đồng thời với sự trưởng thành và biệt hoá bộ máy sinh dục, dưới tác động của hệ thống thần kinh và hocmon. Ở chim trưởng thành, tính chất chu kỳ của sự tạo tinh trùng có thay đổi theo mùa của hoạt động sinh dục.   
                                                               
                  

Hình 1.9. Tinh trùng một số loài chim
Trong giai đoạn sinh sản, nguyên bào ở màng đáy thành ống, được phân chia nhiều lần bằng cách gián phân nhằm làm tăng số lượng. Sau đó, chúng ngừng sinh sản và bắt đầu vào giai đoạn thứ hai - giai đoạn sinh trưởng. Những tế bào này nằm trong vùng sinh trưởng, ống dẫn chất dinh dưỡng to ra, và tế bào tăng về kích thước. Những tế bào như vậy gọi là tinh bào thứ nhất. Trong nhân những nhân tế bào này, thể nhiễm sắc của nhân hình thành từng cặp, sau đó xảy ra quá trình tiếp hợp nhiễm sắc. Trong thời điểm này, chất dinh dưỡng vào nguyên bào chậm dần và giai đoạn sinh trưởng cũng không được tiến hành nữa.
Trong nhân tế bào xuất hiện những nhiễm sắc tứ liên, trong lúc đó số lượng nhiễm sắc tứ liên trùng với số đôi nhiễm sắc trong nguyên bào tinh. Tiếp theo là giai đoạn trưởng thành. Giai đoạn này gồm hai lần phân chia liên tiếp. Sau lần chia thứ nhất, mỗi tinh bào thứ nhất tạo thành 2 tinh bào thứ hai. Sau đó bắt đầu phân chia lần thứ hai và mỗi tinh bào thứ hai tạo thành hai tế bào mới - tiền tinh trùng, trong nhân của nó có bộ nhiễm sắc thể đơn bội (1n). Tiền tinh trùng có hình cầu và nhân tròn. Trong giai đoạn thứ 4 - tiền tinh trùng dần dần biến thành tinh trùng. Nhân lệch về một phía. Tương bào dài ra. Tâm tế bào nằm vuông góc với bề mặt của nhân. Nhân được bao phủ chỉ bởi một lớp mỏng tương bào. Phần này của tế bào tạo thành phần đầu tinh trùng. Trong phần kéo dài của tế bào hình thành đuôi, quanh nó có tương bào co bóp được. Tinh trùng hình thành hoàn chỉnh được bao bọc đầu (chỏm) trong tương bào tế bào Sertoli, nơi mà sau một thời gian ngắn, tinh trùng hoàn thiện, sau đó từ ống sinh tinh gấp khúc, tinh trùng đi vào mào tinh hoàn và vàoống dẫn tinh.
Khả năng chuyển động và thụ tinh của tinh trùng ở các phần khác nhau của bộ máy sinh dục con trống không giống nhau. Tinh trùng từ ống sinh tinh của tinh hoàn, không chuyển động và không có khả năng thụ tinh. Tinh trùng từ ống của mào thụ tinh được 13%, còn từ ống dẫn tinh - 74%. Tinh trùng từ mào của tinh hoàn ít chuyển động. Tinh trùng ở ống dẫn tinh có khả năng chuyển động mạnh nhất. Thời gian tạo tinh trùng ở gà trống là 14 - 15 ngày, tức là bằng một nửa thời gian tạo tinh trùng của gia súc khác.
Ở con trống đang phát triển, hocmon tuyến yên kích thích sự phát triển tế bào sinh dục, sự phát triển ống sinh tinh và sự tạo thành tế bào sinh dục tăng lên. Thời gian sinh trưởng sinh dục của con trống phụ thuộc vào giống, điều kiện thức ăn, chăn nuôi và nhiều nhân tố khác.
Yếu tố tác động mạnh nhất là ánh sáng, nó tác dụng tới tuyến yên, và thông qua nó, tác dụng tới tuyến sinh dục. Thời gian kéo dài và mức độ chiếu sáng có ảnh hưởng lớn tới sinh trưởng và phát triển của tinh hoàn ở động vật non và quá trình hình thành tinh trùng của con trống trưởng thành. Thành phần quang phổ của ánh sáng cũng có ý nghĩa. Mức độ tác động lên tuyến yên và tuyến sinh dục được sắp xếp theo thứ tự sau: đỏ, da cam, vàng, xanh và xanh da trời.
Thời gian trải qua các giai đoạn khác nhau của sự tạo tinh tinh trùng phụ thuộc vào khả năng phát dục của giống.
Đặc điểm hình thái và sinh lý của tinh trùng chim
Tinh trùng chim, cũng như của động vật có vú đều có ngoại hình như nhau: đầu, cổ, thân và đuôi. Các loại chim khác nhau thì tinh trùng của chúng khác nhau về chiều dài và hình dạng của đầu
Độ dài của tinh trùng trung bình là 40 - 60 micron. Đầu tất cả các loại tinh trùng, trừ phần trước của nó - hình mũ chụp và chứa nhân đồng nhất. Phía trước nhân có tiểu thể nhỏ, tiểu thể này là sản phẩm của bộ Golgi. Cổ - phần không lớn lắm, hơi bị thắt lại, nối với đầu và thân. Phía trên cổ, ở dưới nhân có trung thể. Gần nó là nơi bắt đầu sợi trục, sợi này cấu tạo bởi những sợi fibrin nhỏ kéo dài xuống tới đuôi. Quanh trục này có 2 sợi fibrin quấn quanh như hình lò xo. Hai sợi này dễ tách ra ở thân và đuôi. Phần tròn của đuôi chỉ có sợi trục, bao quanh nó là một lớp mỏng bào tương. Phần tạo ra cử động chính của tinh trùng là sợi trục. Càng gần tới phần cuối của đuôi, độ cong và tốc độ chuyển động sóng của sợi trục càng ít. Tinh trùng gia cầm cũng như của những động vật thụ tinh trong, đều chuyển động thẳng do những chuyển động quay quanh trục dọc của đuôi.
Tốc độ chuyển động của tinh trùng chim trung bình là 1 - 1,5 mm/phút. Để chuyển động được, tinh trùng cần phải có lượng năng lượng lớn, được tạo ra ở phần giữa của đuôi khi xảy ra quá trình oxi hoá photpholipit và hidrat cacbon. Tính chuyển động của tinh trùng chỉ tồn tại trong những điều kiện thích hợp, quan trọng nhất là nhiệt độ và pH môi trường. Ở nhiệt độ trên 48o C và 0oC gây ảnh hưởng không tốt. Môi trường thích hợp nhất là trung tính, kiềm yếu hoặc axit yếu.
Khối lượng tinh phóng ra của con trống khi giao cấu không giống nhau ở các loại chim khác nhau. Khối lượng tinh phóng ra và nồng độ tinh trùng là những chỉ số đánh giá chức năng của dịch hoàn, phụ thuộc vào đặc điểm cá thể của con trống, số lần giao cấu, mùa trong năm và những yếu tố khác. Kết quả cho thấy rằng trong suốt một ngày đêm, lượng tinh trùng sản xuất ra không bằng nhau, tăng lên vào ban đêm và sáng sớm, ban ngày sự tạo tinh trùng giảm. Số lượng và chất lượng tinh trùng trong tinh dịch phóng ra của con trống phụ thuộc vào tỷ lệ trống mái trong đàn.
Phản xạ sinh dục và động tác giao cấu
Chim trưởng thành sinh dục khi cơ quan sinh sản phát triển, đã hoàn chỉnh và bắt đầu có phản xạ sinh dục. Phản xạ sinh dục không điều kiện phức tạp của chim cũng như của động vật có vú bao gồm: a) Phản xạ lại gần; b) Chuẩn bị cơ quan giao hợp; c) Phản xạ giao hợp; d) Phóng tinh.
Những phản xạ sinh dục có liên quan với nhau, phản xạ giao hợp không xuất hiện khi không có phản xạ lại gần. Để có được hiện tượng phóng tinh, cần có sự chuẩn bị của cơ quan giao hợp. Nếu như một phản xạ nào đó mất đi thì các tổng hợp phản xạ không thể có được.
Nếu hiện tượng giao cấu sảy ra nhiều thì sẽ giảm lượng tinh phóng ra và nồng độ tinh trùng, nghĩa là giảm tỷ lệ thụ tinh. Trong một đàn nhiều trống mái, thường có hiện tượng chọn lọc trong giao phối giữa một số cá thể với nhau. Phản xạ giao hợp ở chim là sự dính sát vào nhau của 2 ổ nhớp. Độ sạch của ổ nhớp có ý nghĩa rất quan trọng trong phản xạ giao cấu và ảnh hưởng rất rõ đến tỷ lệ thụ tinh. Trong chăn nuôi, cần hết sức chú ý đến vấn đề này. Theo kinh nghiệm của nông dân, để trứng có tỷ lệ thụ tinh cao, mỗi tuần cần rửa sạch phân ở khu vực xung quanh lỗ huyệt của con trống và mái, thậm chí, nhổ bớt lông xung quanh lỗ huyệt của con trống nhằm làm cho lỗ huyệt của cả hai áp sát vào nhau khi đạp mái. Khi phóng tinh, con trống thường phóng ít một nhờ cơ của cơ quan sinh dục co bóp. Trung tâm thần kinh của sự phóng tinh nằm ở phần hông tuỷ sống. Thần kinh phó giao cảm đi tới tận cơ quan sinh dục, kích thích những thần kinh này làm giảm sự phóng tinh, còn kích thích thần kinh giao cảm làm tăng sự phóng tinh.
Ở chim, ngoài phản xạ không điều kiện, có thể tạo phản xạ có điều kiện trong trường hợp, nếu một vật kích thích nào đó từ môi trường xung quanh trùng với phản xạ không điều kiện trong cùng một thời gian. Người ta thường tạo ra các phản xạ có điều kiện để khai thác tinh dịch của con trống để thụ tinh nhân tạo.
Giao phối
Ở chim bồ câu trống, sự phô diễn của chim trống gợi tình trước chim mái là khá phức tạp, quá trình này thay đổi theo thời gian và tùy thuộc từng cá thể; chim trống dang rộng đôi cánh, lúc lắc đầu nhằm thu hút sự chú ý của con mái. Cùng lúc nó phát ra tiếng "gù" trong trẻo, uốn lượn thân mình quanh con mái mà nó lựa chọn. Con mái đáp lại bằng cử chỉ "nhí nhảnh" và "tự hào".
Thời kỳ kế tiếp là tìm kiếm vật liệu và làm tổ. Từ lúc này trở đi, chim bồ câu trống không rời mắt khỏi "bạn tình". Trong lúc con trống bay lượn tìm nguyên liệu (rơm, rác, cành cây con,¼) thì con mái chăm lo làm tổ là chính.
Nhiều "pha" âu yếm của đôi chim xảy ra trước khi giao phối, mở đầu là một nụ "hôn" bằng mỏ, chim bồ câu mái dùng mỏ của mình luồn vào trong mỏ của chim trống, sau đó, cả 2 cái đầu gật gù, đưa đẩy¼ tựa như khi chim bố mẹ mớm mồi cho chim con vậy. Sau pha này, sự giao hợp sẽ xảy ra. Con trống nhảy lên lưng con mái khi nó đang dang đôi cánh để giữ thăng bằng, sau đó nó cong ngược hậu môn lên để chờ đón cơ quan giao phối của con trống.
Sự giao hợp được thực hiện bằng cách áp hai hậu môn của trống mái vào nhau, lúc đó chim trống phóng tinh dịch vào phía trong bằng hai nhú lồi. Cũng như ở gia cầm khác, tinh trùng trong đường sinh dục của chim mái giữ được khả năng thụ tinh đến 2 tuần.
Chương 2
DINH DƯỠNG CỦA CHIM

Cũng như bất kỳ loại vật nuôi nào, muốn tồn tại, hàng ngày đà điểu và chim phải ăn một lượng thức ăn nhất định, lượng thức ăn này hưởng trực tiếp đến sức khỏe, khả năng sinh trưởng và sức sản xuất của chúng.
Các chất dinh dưỡng của cơ thể gồm các chất đa lượng: gluxit, lipit, protein, khoáng đa lượng; các chất dinh dưỡng vi lượng gồm vitamin, khoáng vi lượng. Để cung cấp cho vật nuôi khẩu phần ăn thích hợp, cần phải xác định được nhu cầu của chúng về từng chất dinh dưỡng nói trên trong khẩu phần.
2.1. NHU CẦU CÁC CHẤT DINH DƯỠNG
2.1.1. Nhu cầu năng lượng
Trong quá trình sống, đà điểu và chim luôn trao đổi năng lượng với môi trường xung quanh và thu nhận năng lượng từ bên ngoài vào, vì mọi hoạt động sống đều cần năng lượng, được lấy từ các chất dinh dưỡng của thức ăn mà nó thu nhận hàng ngày như gluxit, lipit, protein.
Nhờ quá trình trao đổi chất mà năng lượng trong các chất dinh dưỡng được chuyển hóa thành các dạng năng lượng cần thiết cho hoạt động sống của cơ thể.
Năng lượng thừa sau khi sử dụng cho sinh trưởng bình thường và các hoạt động sống của con vật, một phần được tỏa ra dưới dạng nhiệt năng vàphần còn lại - tích lũy mỡ trong cơ thể. Đây là điểm rất cần lưu ý khi phối hợp khẩu phần ăn cho đà điểu và chim, nhất là trong giai đoạn hậu bị và giai đoạn đẻ trứng, bởi vì nếu thừa năng lượng sẽ làm giảm khả năng sinh sản của chim giống.
Đối với các đàn chim thịt thương phẩm (broiler), mức năng lượng trong khẩu phần ăn có ảnh hưởng đến chất lượng thịt, có xu hướng tỷ lệ thuận với hàm lượng mỡ trong thịt.
Khi phối hợp khẩu phần ăn cho chim, không những phải đảm bảo đủ nhu cầu năng lượng mà còn phải cân đối với các chất dinh dưỡng khác như protein, axit min, khoáng và vitamin¼ bởi vì chim thu nhận thức ăn trước hết để thoả mãn nhu cầu về năng lượng. Do đó, khi đã thu nhận đủ năng lượng rồi thì chúng không ăn thêm nữa, mặc dù nhu cầu các chất dinh dưỡng khác vẫn còn thiếu. Vì vậy, có thể nói năng lượng là "chìa khoá chính" cần sử dụng trong khi phối hợp khẩu phần ăn cho các loại chim.
Nhu cầu năng lượng cho đà điểu và chim bao gồm nhu cầu năng lượng cho duy trì và cho sản xuất.
- Nhu cầu năng lượng cho duy trì bao gồm nhu cầu cho trao đổi cơ bản (energy for basal metabolism) và cho các hoạt động bình thường (energy for normal activity).
Nhu cầu năng lượng cho hoạt động bình thường phụ thuộc vào mức độ hoạt động của con vật. Ở điều kiện bình thường, nhu cầu này bằng khoảng 50% cho trao đổi cơ bản.
Gia cầm sử dụng năng lượng của thức ăn trước hết thỏa mãn cho nhu cầu duy trì, sau đó mới sử dụng cho nhu cầu sản xuất.
- Nhu cầu năng lượng cho sản xuất bao gồm nhu cầu cho tăng trọng và cho sản xuất trứng.
a. Phương pháp tính nhu cầu năng lượng
Để tính nhu cầu năng lượng cho đà điểu và chim, người ta dựa vào nhu cầu cho duy trì và nhu cầu cho sản xuất.
- Phương pháp tính nhu cầu năng lượng cho chim mái đẻ
Như trên đã nói, nhu cầu năng lượng cho chim mái đẻ bao gồm nhu cầu cho duy trì và cho sản xuất. Trong khi chờ đợi các nghiên cứu chuyên sâu cho từng đối tượng chim cụ thể, các nhà chăn nuôi thống nhất tạm dùng phương pháp tính toán cho gà để sử dụng cho chim cút, được trình bày tóm tắt trong bảng sau:
- Phương pháp tính nhu cầu năng lượng cho chim thịt
Để tính nhu cầu năng lượng cho chim thịt thương phẩm, người ta cũng dựa vào nhu cầu cho duy trì và nhu cầu cho sản xuất. Nhu cầu cho sản xuất của chim thịt thương phẩm chỉ là nhu cầu cho tăng khối lượng cơ thể. Có thể tham khảo công thức (3) và (4) để tính.
ME (giai đoạn 0-3 tuần tuổi) = 128,5W0,75+ 2,5DW (3)
ME (giai đoạn trên 4 tuần tuổi) = 128,5W0,75+ 3,8DW (4)
b. Những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu năng lượng
Nhu cầu năng lượng bao gồm nhu cầu cho duy trì và cho sản xuất. Nhu cầu cho duy trì bao gồm nhu cầu trao đổi cơ bản và nhu cầu cho các hoạt động bình thường khác. Nhu cầu năng lượng cho trao đổi cơ bản phụ thuộc chủ yếu vào tuổi, giới tính, giống, khối lượng cơ thể và nhiệt độ môi trường. Nhu cầu năng lượng cho sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào tốc độ sinh trưởng, khả năng đẻ trứng v.v¼ Dưới đây là một số yếu tố quan trọng nhất.
- Tuổi
Nhu cầu năng lượng cho trao đổi cơ bản ở chim tăng trong tuần đầu, sau đó đạt mức của chim trưởng thành.
- Giới tính
Nhu cầu năng lượng cho trao đổi cơ bản của chim biểu thị bằng số kcal trên một mét vuông diện tích mặt ngoài cơ thể, nhu cầu của con trống trưởng thành thường lớn hơn nhu cầu của con mái trưởng thành từ 5,7 - 13% ở gà, chim cút thì ngược lại vì con trống nhỏ hơn con mái 5-10%.
- Giống
Giống khác nhau thì nhu cầu năng lượng cho trao đổi cơ bản cũng khác nhau. Nếu tính trên một đơn vị khối lượng, thường những giống hướng trứng có nhu cầu cao hơn các giống hướng thịt; các giống nhẹ cân có nhu cầu cao hơn các giống nặng cân.
- Khối lượng cơ thể và nhiệt độ môi trường
Khối lượng cơ thể càng lớn thì nhu cầu năng lượng cho duy trì càng cao để duy trì thân nhiệt và các hoạt đông sinh lý bình thường.
Giữa nhiệt độ môi trường và nhu cầu năng lượng của gia cầm có mối tương quan nghịch. Nói cách khác nhiệt độ môi trường càng thấp thì nhu cầu năng lượng cho duy trì càng tăng cao và khi nhiệt độ môi trường càng cao thì nhu cầu năng lượng cho duy trì càng giảm thấp.
Theo Nesheim và CS (1979), nhiệt sinh ra thấp nhất ở 35oC, ở 24oC nhiệt sinh ra trong cơ thể gấp đôi ở nhiệt độ 35oC để duy trì nhiệt độ cơ thể.
Nhu cầu năng lượng của chim phụ thuộc rõ rệt vào nhiệt độ môi trường, khi nhiệt độ môi trường thấp, chúng phải sinh nhiệt để duy trì nhiệt độ cơ thể. Nếu phải sống ở môi trường có nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ giới hạn thì sự sinh nhiệt có thể gấp 3 - 11 lần lúc bình thường, điều này sẽ làm cho chim tiêu tốn năng lượng nhiều hơn, hiệu quả sử dụng thức ăn sẽ kém hơn.
- Tốc độ sinh trưởng
Để sinh trưởng, chim cần được cung cấp năng lượng. Mỗi gam tăng khối lượng cơ thể cần cung cấp khoảng 5 kcal ME. Vì thế, những giống chim có tốc độ sinh trưởng càng cao thì nhu cầu năng lượng cũng nhiều hơn.
- Sản lượng trứng
Để sản xuất 1g trứng cần cung cấp 2 kcal năng lượng trao đổi, do đó năng suất trứng càng cao, khối lượng trứng càng lớn thì nhu cầu năng lượng càng đòi hỏi nhiều hơn.
- Lượng thức ăn thu nhận
Lượng thức ăn ăn vào không chỉ ảnh hưởng đến nhu cầu năng lượng mà còn ảnh hưởng đến nhu cầu của các chất dinh dưỡng khác.
Có mối quan hệ mật thiết giữa nhiệt độ môi trường, lượng thức ăn thu nhận hàng ngày và mức năng lượng trong khẩu phần. Nhiệt độ môi trường cao sẽ làm chim giảm ăn.Trong mùa hè, khi nhiệt độ môi trường > 29oC, chim chỉ ăn bằng 80 - 85% lượng thức ăn trong mùa đông có cùng nồng độ ME, dẫn đến thiếu hụt các chất dinh dưỡng cần thiết. Cần phải giải quyết bằng cách:
Tăng mức năng lượng và các chất dinh dưỡng khác trong thức ăn. Giảm mức năng lượng trong khẩu phần để giúp chim ăn được nhiều hơn.
Khi giảm mức năng lượng trong khẩu phần, tuy làm tăng lượng thức ăn ăn vào; song cũng sẽ làm tăng năng lượng gia nhiệt và làm giảm hiệu quả sử dụng thức ăn. Vì thế, phải tuỳ theo các loại chim khác nhau mà giảm mức năng lượng cho thích hợp.
- Tính chất của khẩu phần
Khẩu phần cân bằng các chất dinh dưỡng, đặc biệt là cân bằng giữa năng lượng và protein, cân bằng giữa các axit amin sẽ tiết kiệm năng lượng trong quá trình trao đổi chất. Ngược lại, mất cân đối các chất dinh dưỡng trong thức ăn sẽ làm tăng mất mát năng lượng theo gia nhiệt, điều đó sẽ làm tăng nhu cầu về năng lượng.
Hàm lượng xơ trong khẩu phần cao làm giảm tỷ lệ tiêu hoá các chất dinh dưỡng, dẫn đến giảm năng lượng của khẩu phần và giảm hiệu quả sử dụng thức ăn. Thức ăn bị nhiễm aflatoxin, nhu cầu về metionin tăng thêm 35%, đồng thời tăng nhu cầu ề năng lượng, protein và vitamin.
Ngoài các yếu tố nêu trên thì phương thức nuôi, quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc cũng có ảnh hưởng đến nhu cầu năng lượng.
2.1.2. Nhu cầu protein
Cũng như bất kỳ loại vật nuôi nào, protein là thành phần cấu trúc quan trọng nhất của cơ thể chim. Những đặc tính này đảm bảo chức năng của protein với tư cách là: "chất mang sự sống". Vai trò của nó trong cơ thể chim rất to lớn và đa dạng. Trong cơ thể chim, protein không được tổng hợp từ gluxit hay lipit mà nó chỉ được tổng hợp từ các axit amin.
Cũng như năng lượng, nhu cầu protein của chim gồm hai phần: cho duy trì và cho sản xuất. Nhu cầu protein của chim được tính băng số gam protein thô cho mỗi con trong một ngày đêm. Trong khẩu phần ăn của chim, nhu cầu protein thường được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm (%) protein thô.
Để có cơ sở phối hợp bao nhiêu phần trăm protein trong mỗi loại thức ăn, cần biết được nhu cầu protein (gam/con/ngày) cho mỗi loại chim hàng ngày, trên cơ sở khả năng thu nhận thức ăn hàng ngày của mỗi loại chim mà xác định được tỷ lệ protein thích hợp trong mỗi loại thức ăn cho mỗi cá thể.
Phương pháp tính nhu cầu protein
- Phương pháp tính nhu cầu protein cho chim đang sinh trưởng
Nhu cầu protein cho chim đang sinh trưởng bao gồm nhu cầu protein cho duy trì, cho tăng trọng cho phát triển lông.
Có thể dựa vào công thức (5) để tính toán.
Protein (g) =            0,0016W + 0,18DW + 0,04(hoặc 0,07)DW0,82
                                                                           0,55
Trong đó: W là khối lượng cơ thể chim (g)
DW là tăng khối lượng cơ thể hàng ngày (g)
Ghi chú: Bộ lông chiếm khoảng 4 - 7% so với khối lượng cơ thể.
b. Một số yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu protein của chim
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu protein của chim, nếu các yếu tố thuộc qui trình kỹ thuật được coi là nghiêm ngặt thì nó phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố sau:
- Loài, giống, dòng
Mỗi loài, giống hay dòng chim có một kiểu di truyền khác nhau. Từ đó, chúng có ngoại hình, tầm vóc, sức sản xuất và kiểu trao đổi chất khác nhau nên nhu cầu protein cũng khác nhau.
- Sức sản xuất
Khả năng sinh trưởng càng nhanh, khả năng đẻ trứng càng cao, khối lượng trứng càng lớn thì nhu cầu protein cũng càng cao.
- Nhiệt độ môi trường
Nhiệt độ môi trường cao, chim sẽ ăn ít đi và ngược lại.
- Mức năng lượng của khẩu phần
Chim thu nhận thức ăn trước hết là để thoả mãn nhu cầu về năng lượng, khi đã thu nhận đủ nănglượng rồi thì chúng không ăn nữa, mặc dù các chất dinh dưỡng khác vẫn còn thiếu. Giả sử nhu cầu năng lượng và protein hàng ngày của 1 chim là 83 kcal và 6,18g protein.
Nếu khẩu phần có nồng độ ME là 3200 kcal/kg, chim cần ăn 26g/ ngày để đảm bảo 83 kcal, khi đó, nồng độ protein phải là 23,8% để cấp đủ 6,18g cần phải có.
Nếu ta dùng khẩu phần khác, có nồng độ ME là 2900 kcal/kg, để đảm bảo 83 kcal, chim phải ăn 28,6 g thức ăn, khi đó trong khẩu phần chỉ cần 21,6% protein đã đủ nhu cầu 6,17g. Như vậy, năng lượng là "chìa khóa chính" để lập khẩu phần.
- Lượng thức ăn thu nhận
Nhu cầu protein của chim được tính bằng số gam protein thô (CP- Crude Protein)cho mỗi con/ ngày đêm. Tuy nhiên, không thể thu nhận riêng rẽ hay nuốt trực tiếp số lượng protein cần thiết được, mà chim phải ăn protein cùng các chất dinh dưỡng khác theo một tỷ lệ nhất định. Trong khẩu phần ăn, protein thường được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm (%) protein thô, do đó, lượng thức ăn thu nhận có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu protein trong khẩu phần ăn của chim
2.1.3. Nhu cầu axit amin
Dinh dưỡng protein thực chất là dinh dưỡng axit amin, bởi vì axit amin là thành phần cấu tạo cơ bản của protein.
Dựa vào nhu cầu dinh dưỡng của động vật, người ta chia axit amin thành hai loại là axit amin thay thế được và không thay thế được. 10 axit amin không thay thế được là vline, leucine, izoleucine, lyzine, histidine, threonine, methionine, phenylalanine, tryptophane, arginine. Ngoài ra, với non còn cần cả glycine và proline; sinh sản cần thêm glutamic.
Axit amin giới hạn là axit amin mà số lượng của nó thường thiếu so với nhu cầu, từ đó làm giảm giá trị sinh học của protein trong khẩu phần (Shimada, 1984). Axit amin nào thiếu nhiều nhất và làm giảm hiệu suất lợi dụng protein lớn nhất thì gọi là axit amin giới hạn thứ nhất (yếu tố số 1), tương tự và sau đó là các axit amin giới hạn thứ hai, thứ ba¼ Khi phối hợp khẩu phần, ta cũng phải giải quyết từng axit amin theo trật tự giới hạn đó thì mới có hiệu quả.
a. Phương pháp biểu thị nhu cầu axit amin trong khẩu phần
Trong dinh dưỡng, nhu cầu về axit amin chủ yếu là nhu cầu về các axit amin không thay thế. Khi thiếu bất kỳ một axit amin không thay thế nào trong khẩu phần ăn thì quá trình tổng hợp protein sẽ bị rối loạn, thậm chí còn làm phá huỷ trao đổi chất của cơ thể. Điều đó làm giảm khả năng sinh trưởng cũng như sức sản xuất của. Vì vậy, cần cung cấp đầy đủ các axit amin không thay thế theo đúng nhu cầu của mỗi loại. Theo Scott và cộng sự (1982) có 4 cách thông thường biểu thị nhu cầu axit amin. - Số gam axit amin cho một con /ngày.
- Số gam axit amin cho 1000 kcal năng lượng trao đổi của khẩu phần.
- Tỷ lệ phần trăm axit amin tính theo khẩu phần. - Tỷ lệ phần trăm axit amin tính theo protein.
Hiện nay cách biểu thị nhu cầu axit amin phổ biến nhất cách thứ ba: tỷ lệ % axit amin tính theo khẩu phần.
b. Xác định nhu cầu axit amin
Theo Fisher (1994), khi xácđịnh nhu cầu axit amin cho chim cần chú ý đến các nhu cầu sau:
- Nhu cầu cho tăng trọng tối đa.
- Nhu cầu cho hiệu quả chuyển hoá thức ăn tối ưu.
- Nhu cầu cho tỷ lệ thịt xẻ tối đa.
- Nhu cầu cho thành phần hoá học của thịt tối ưu.
- Nhu cầu cho tỷ lệ thịt lườn (cơ ngực) cao nhất.
Nhu cầu axit amin cho hiệu quả chuyển hoá thức ăn tối ưu và cho năng suất thịt lườn (trừ đà điểu) là lớn nhất, thường cao hơn nhu cầu cho tăng trọng tối đa.
Khi tính toán nhu cầu các axit amin không thay thế, người ta thường chọn lysine làm axit amin so sánh và đưa ra cân bằng lý tưởng axit amin cho chim. Cần lưu ý là cân bằng lý tưởng axit amin trong khẩu phần ăn cho chim khác nhau tuỳ theo hướng và mục đích sản xuất. Để tích luỹ nhiều thịt nạc, chim cần mức lysine cao trong khẩu phần. Để nuôi chim đẻ trứng năng suất cao, cần nhiều axit amin có chứa lưu huỳnh.
Một vấn đề cần được chú ý trong dinh dưỡng là sự cân bằng axit amin. Tất cả những axit amin cần thiết đều được lấy từ thức ăn, không có sự dự trữ axit amin trong cơ thể. Do đó, chỉ cần thiếu một axit amin không thay thế bất kỳ sẽ ngăn cản việc sử dụng các axít amin khác để tổng hợp protein. Khi đó các axít amin sẽ được sử dụng như một nguồn cung cấp năng lượng gây lãng phí. Mặt khác, làm giảm tính ngon miệng, giảm sinh trưởng, cân bằng nitơ âm.
Việc phân loại axit amin thay thế và không thay thế đối với chim cũng chỉ mang tính tương đối. Điều quan trong nhất trong dinh dưỡng axit amin là sự có mặt đồng thời của các axit amin trong tế bào theo yêu cầu. Sự có mặt không đồng thời của bất kỳ một axit amin nào trong tế bào cũng có kết quả như nhau, cho dù đó là axit amin thay thế được hay không thay thế được.
Nhu cầu về axit amin của chim phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nên việc xác định chính xác nhu cầu axit amin cho chim là rất khó khăn. Để xác định nhu cầu axit amin của chim, người ta dựa vào hàm lượng axit amin trong các sản phẩm của chúng; khả năng sản xuất và thông qua các thực nghiệm. Vì thế, các khuyến cáo về nhu cầu axit amin cũng rất khác nhau.
c. Một số yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu axit amin
- Giống, giới tính và lứa tuổi
Mỗi giống chim có một kiểu di truyền riêng, quyết định tầm vóc cơ thẻ, tốc độ sinh trưởng và sức sản xuất khác nhau, vì vậy nhu cầu về axit amin cũng khác nhau giữa các dòng, giống, thậm chí là giữa các cá thể.
Giới tính cũng ảnh hưởng đến nhu cầu axit amin của gia cầm. Nhu cầu của chim trống thường cao hơn chim mái. Nhiều thí nghiệm cho biết, cùng một lứa tuổi, chim trống cần nhu cầu lysine là 1,1% thì chim mái chỉ cần 0,95% trong khẩu phần.
Tuổi khác nhau thì nhu cầu axit amin cũng khác nhau. Tuổi càng tăng lên thì nhu cầu lysine tính theo phần trăm trong khẩu phần càng giảm thấp.
- Mức năng lượng trong khẩu phần
Khi cho ăn tự do thì mức năng lượng trong khẩu phần là yếu tố chính quy định lượng thức ăn thu nhận của chim. Khẩu phần có mức năng lượng thấp thì chim sẽ ăn nhiều hơn và ngược lại. Nếu hàm lượng axit amin trong khẩu phần là như nhau thì khẩu phần có mức năng lượng thấp, chim sẽ ăn được nhiều axit amin hơn. Chính vì vậy khi mức năng lượng trong khẩu phần tăng lên thì nhu cầu về axit amin tính theo phần trăm trong khẩu phần cũng tăng lên.
- Hàm lượng protein thô trong khẩu phần
Nhu cầu về axit amin tính theo phần trăm protein thô của khẩu phần sẽ giảm khi hàm lượng protein trong khẩu phần tăng lên. Mối tương quan này rất chặt chẽ đối với axit amin lyzin và các axit amin chứa lưu huỳnh. Sự tương quan này có thể áp dụng cho cả các axit amin không thay thế khác. Mối quan hệ này được biểu diễn bằng phương trình
Y = 7,23 - 0,131X
Trong đó:
Y: % Lysine trong khẩu phần.
X : % protein thô trong khẩu phần.
- Nhiệt độ môi trường
Khi nhiệt độ môi trường cao sẽ làm giảm lượng thức ăn thu nhận nhưng chim uống nước nhiều hơn. Stress nhiệt đã làm thay đổi cả sức chứa lẫn khả năng tiêu hoá các chất dinh dưỡng của chim nói chung và các axit amin nói riêng. Thí nghiệm của Robert và cộng sự (1994) đã cho biết tỷ lệ tiêu hoá các axit amin trong điều kiện nhiệt độ cao (32oC) thấp hơn ở nhiệt độ bình thường (21oC). Mức độ giảm tỷ lệ tiêu hoá của các axit amin khác nhau cũng khác nhau. Tỷ lệ tiêu hoá của lysine ở nhiệt độ 21oC là 83% thì ở 31oC là 80%. Tỷ lệ tiêu hoá của Methionine ở 21 oC là 92% còn ở 31 oC là 87%. Tỷ lệ tiêu hoá của Izoleucine tương ứng là 87 và 80%. Ở nhiệt độ môi trường cao, chim mái bị giảm tỷ lệ tiêu hoá axit amin nhiều hơn chim trống.
- Ảnh hưởng của vitamin
Nhu cầu axit amin của chim còn bị ảnh hưởng bởi thành phần các chất dinh dưỡng có trong khẩu phần, nhất là các chất có hoạt tính sinh học cao như vitamin.
+ Mối quan hệ giữa vitamin B12 với Methionine.
Vitamin B12 có trong thành phần coenzim của enzim methiltransferaza. Enzym này chuyển homocysteine thành methionine.
+ Mối quan hệ giữa tryptophane và axit nicotinic.
Nếu trong khẩu phần thiếu axit nicotinic sẽ làm tăng nhu cầu về tryptophane, do cơ thể chim có thể tổng hợp axit nicotinic từ tryptophane, cứ 50-60 phân tử tryptophane mới tổng hợp được một phân tử axit nicotinic.
+ Mối quan hệ giữa methionine và choline
Methionine là nguồn cung cấp nhóm methyl cho việc tổng hợp choline, chính vì vậy trong khẩu phần thiếu choline sẽ làm tăng nhu cầu về methionine.
2.1.4 Nhu cầu vitamin
Cấu trúc hoá học, vai trò và cách thức hoạt động của các vitamin rất khác nhau nhưng chúng đều có chung những tính chất cơ bản. Các vitamin tham gia vào thành phần nhóm ghép của rất nhiều enzym trong cơ thể, ảnh hưởng rất lớn đến quá trình trao đổi chất. Hầu hết các vitamin không được tổng hợp trong cơ thể động vật mà phải thu nhận từ thức ăn. Vitamin cần thiết cho chim ở mọi lứa tuổi khác nhau nhưng chỉ cần với một liều lượng nhỏ (đơn vị tính thường là UI, miligam, microgam). Đặc biệt, chim rất nhạy cảm với sự thiếu các vitamin, chỉ thiếu một ít cũng đã làm giảm sức sản xuất.
Các vitamin được chia thành hai nhóm:
- Nhóm vitamin tan trong dầu mỡ gồm các vitamin A, D, E, K.
- Nhóm vitamin tan trong nước: Vitamin nhóm B (B1, B2, B12... ), C, axit pantotenic ...
a. Vitamin A và D
- VitaminA
VitaminA có rất nhiều chức năng quan trong đốivới cơ thể chim. Nó có tác dụng đối với thị giác, sự phát triển của niêm mạc và da, tăng cường tổng hợp immunoglobin và kích thích tổng hợp kháng thể, tăng khả năng chống chịu stress gây ra bởi nhiệt độ quá cao hay quá thấp. Khi thiếu vitamin A, niêm mạc và da dễ bị tổn thương, khả năng tổng hợp kháng thể giảm thấp nên đã làm cho sức chống bệnh của cơ thể bị suy giảm.
b-caroten đối với cơ thể gia cầm còn nhiều chức năng riêng, ngoài vai trò là tiền vitamin A, nó còn có chức năng chống ung thư và bênh đường hô hấp. Kết hợp cùng với vitamin A sẽ làm vết thương lành nhanh hơn. Hơn nữa, b-caroten có tác dụng chống oxy hóa mạnh, có thể kết hợp với vitamin E, C và selen để phòng chống lão hóa.
Bổ sung vitamin A sẽ làm tăng khả năng sinh trưởng ở chim con và tăng tỷ lệ đẻ trứng của chim sinh sản. Đặc biệt vitamin A có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của phôi chim.
Khi thiếu vitamin A, phôi sẽ ngừng phát triển. tỷ lệ phôi chết tăng cao. Nếu trong khẩu phần thiếu vitamin A, lại thiếu cả các vitamin nhóm B mà thừa protein thì thận sẽ sưng to, xung huyết và đọng nhiều muối urat màu ngà. Chim con nở ra mắt nhắm nghiền hoặc mở rất khó khăn; đôi khi mắt nhắm chặt hoặc có nhiều dử mắt, da chân khô ráp.
Vitamin A cần thiết cho chim ở mọi lứa tuổi và trạng thái sinh lý. Chim non có nhu cầu cao nhất, sau đó là gia cầm sinh trưởng và sinh sản. Nếu tăng lượng vitamin A trong khẩu phần, sẽ làm tăng hàm lượng vitamin A trong trứng.
- VitaminD
Khi thiếu vitamin D ảnh hưởng đến quá trình hấp thu Ca, P làm quá trình khoáng hóa cốt hóa kém. Chim non bị còi xương, chim trưởng thành bị mềm xương, xốp xương, loãng xương, chim đẻ trứng sẽ đẻ trứng mỏng vỏ, tăng tỷ lệ dập vỡ, thậm chí trứng không có vỏ.
Vitamin D rất cần thiết cho sự phát triển của phôi chim. Trong trứng, vitamin D tập trung chủ yếu trong lòng đỏ. Khi thiếu vitamin D sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ ấp nở trước khi ảnh hưởng đến tỷ lệ đẻ trứng của đàn chim sinh sản. Thiếu vitamin D sẽ làm cho tỷ lệ chết phôi tăng cao vào nửa sau của quá trình ấp, đặc biệt là những ngày ấp cuối cùng. Các phôi chết trong khoảng 10-14 ngày ấp thấy mình sưng mọng, dưới da có nhiều chất lỏng, đôi khi da bị sung huyết. Cần lưu ý nếu trong khẩu phần thừa vitamin d cũng sẽ làm giảm tỷ lệ ấp nở của trứng chim. Nếu trong khẩu phần ăn của đàn chim sinh sản có nhiều Mn sẽ giảm nhu cầu vitamin D.
b. Vitamin nhóm B và vitamin C
- Biotin
Biotin có trong thành phần coenzym cho các phản ứng chuyển CO2 từ chất này đến chất khác trong chuyển hoá carbohydrat, lipit và protein. Khi thiếu biotin, chim con bị phù và bị perosis. Đối với chim sinh sản, mặc dù khi thiếu biotin tỷ lệ đẻ không bị giảm, nhưng sẽ giảm chất lượng trứng vàtỷ lệ ấp nở giảm rõ rệt. Khi thiếu quá nhiều biotin trong thức ăn của đàn chim sinh sản thì tỷ lệ chết phôi sẽ tăng vọt vào ngày ấp thứ ba. Nếu thiếu ít hơn, phôi sẽ chết vào giữa hay cuối của quá trình ấp. Biểu hiện đặc trưng nhất khi thiếu biotin là các phôi chết bị bệnh micromelia kèm theo hiện tượng "mỏ vẹt" Để cung cấp biotin, có thể sử dụng biotin tổng hợp hoặc sử dụng những loại thức ăn giàu biotin như bột cỏ, tấm gạo, nấm men, khô dầu hướng dương và khô dầu bông.
- Choline
Cholin có tác dụng ngăn ngừa hội chứng gan nhiễm mỡ, tham gia vào sự truyền xung động thần kinh (thành phần của acetylcholine). Khi thiếu choline, chim thường bị hội chứng gan nhiễm mỡ, giảm sinh trưởng. Để cung cấp choline, có thể sử dụng cholin chloride hay các loại thức ăn giàu choline như cám gạo, mầm lúa mì, nấm men, khô cải dầu, bột cá.
Folacin (axit folic)
Axit folic là thành phần của coenzym tetrahydrofolic axit trong traođổi protein. Thiếu axit folic trong khẩu phần thường xuất hiện triệu chứng thiếu máu ở chim non, chim con chậm lớn, mất mầu lông. Đủ axit folic sẽ đảm bảo cho phôi phát triển tốt, tỷ lệ ấp nở cao, chim con sẽ khoẻ mạnh, sức đề kháng tốt và tăng trọng nhanh. Nếu thiếu axit folic trong thức ăn của chim sinh sản thì tỷ lệ chết phôi sẽ tăng cao vào những ngày ấp cuối cùng, thậm chí cả sau khi nở ra. Khi thiếu quá trầm trọng sẽ gây ra tình trạng phôi còi, chân và mỏ bị dị hình. Một số phôi chết có xương chày bị cong, đầu dẹt, mắt nhỏ và thường có một túi trong suốt ở trên thuỷ tinh thể. Xương hàm dưới kém phát triển hoặc không có hoàn toàn. Cổ phôi dài hơn bình thường và bị vặn xoắn. Một số trường hợp phù thũng toàn thân. Bụng phôi phình to do các cơ quan nội tạng phát triển không bình thường.
Có thể cung cấp axit folic từ folacin tổng hợp, nấm men, mầm lúa mì, khô đỗ tương, khô dầu bông, khô dầu lanh.
Niacin (Axit Nicotic, Nicotin -amide)
Niacine có trong thành phần của coenzym NAD và NADP trong chuyển hoá carbohydrat, lipit và protein. Khi thiếu niacine trong khẩu phần sẽ làm bộ lông của chim xơ xác, cơ thể dễ bị phù nề. Nguồn cung cấp niacine: niacin tổng hợp, cám gạo, nấm men, hải sản, gan động vật.
- Axit pantothenic (vitamin B3)
Vitamin B3 có trong thành phần của Acetyl-coenzym A cần cho sự chuyển hoá carbohydrat, lipit và protein. Thiếu vitamin B3 sẽ làm giảm sinh trưởng, rụng lông, viêm ruột, phù nề và chết phôi. Có thể cung cấp vitamin B3 bằng calcium pantothenate, tấm gạo, nấm men, bột cỏ.
- Riboflavin (vitamin B2)
Riboflavin có trong thành phần coenzym FMN và FAD trong chuyển hoá năng lượng. Thiếu vitamin B2 sẽ làm gia cầm giảm sinh trưởng, bị bệnh "ngón chân khoèo". Giảm khả năng đẻ trứng và tỷ lệ ấp nở của trứng. Vitamin B2 rất cần thiết cho sự phát triển bình thường của phôi chim và đảm bảo cho chim non sinh trưởng tốt. Khi thiếu vitamin B2 phôi ngừng lớn, tỷ lệ phôi chết tăng lên ở giữa và cuối quá trình ấp. Nếu thiếu quá trầm trọng, phôi có thể chết ngay ở những ngày đầu của quá trình ấp. Các phôi chết từ 9 -14 ngày ấp thường thấy hiện tượng micromelia hay còn gọi là bệnh chân ngắn kỳ hình (chân ngắn, ngón chân cong, lông kim và phôi còi). Đôi khi bệnh micromelia còn gây ra các dị hình ở hộp sọ. Có thể bổ sung bằng riboflavin tổng hợp hay các loại thức ăn giàu vitamin B2 như nấm men, whey, sữa khử bơ, gan, cỏ xanh.
- Thiamin (vitamin B1)
Vitamin B1 có trong thành phần của coenzym cho quá trình chuyển hoá carbohydrat. Tham gia vào hoạt động của chức năng thần kinh ngoại biên, duy trì tính ham ăn. Thiếu vitamin B1 sẽ làm giảm sự ham ăn, giảm tốc độ sinh trưởng, rối loạn tim mạch, chim con bị viêm thần kinh đa phát, chim mái giảm sản lượng trứng và tỷ lệ nở. Khi thiếu vitamin B1 trong thức ăn của chim bố mẹ sẽ làm tăng tỷ lệ chết phôi vào cuối thời kỳ ấp. Các phôi chết thường bị xuất huyết, bụng sưng và giãn cơ bụng. Đặc trưng nhất là hiện tượng viêm dây thần kinh ở chim con mới nở. Chim con đi ngật ngưỡng, loạng choạng và kèm theo triệu chứng thần kinh. Có thể sử dụng thiamin hydrochloride, thiamin mononitrat hoặc cung cấp những thức ăn giàu vitamin B1 như cám gạo, nấm men, khô dầu bông.
- Vitamin B6 (pyridoxine, pyridoxal, pyridoxamine
Vitamin B6 có trong thành phần của coenzym pyridoxal phosphate cho sự chuyển hoá protein. Khi thiếu trong khẩu phần chim con chậm sinh trưởng, lông phát triển kém. Chim mái bị giảm sức đẻ trứng và tỷ lệ nở của trứng. Những sản phẩm giàu vitamin B6 như bột thịt, bột cá, phụ phẩm lúa mì, cỏ xanh.
- Vitamin B12 (cobalamins)
Vitamin B12 là thành phần của coenzym cobamide trong sự hình thành máu đỏ và duy trì sự phát triền bình thường của mô thần kinh. Thiếu vitamin B12 trong khẩu phần sẽ làm chim giảm sinh trưởng, giảm sức đề kháng. Tuy không ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ đẻ nhưng ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ ấp nở. Khi thiếu vitamin B12, phôi sẽ chết tăng lên nhiều nhất từ 16 đến 18 ngày ấp. Dấu hiệu đặc trưng nhất là cơ chân bị teo đi; xuất huyết toàn thân nên cơ thể có màu đỏ, các khớp có màu sẫm. Đôi khi còn thấy xuất huyết ở màng niệu và túi lòng đỏ.
Nếu trong thức ăn có đủ vitamin B2 thì nhu cầu về vitaminB12 sẽ giảm. Nếu chim sinh sản được nuôi trên lớp độn chuồng dày không thay đổi và lớp độn chuồng được chăm sóc tốt thì sẽ không bị thiếu vitamin B12.
Có thể bổ sung vitamin B12 tổng hợp, hoặc cung cấp từ các loạithức ăn giàu vitamin B12 như các loại thức ăn giàu protein nguồn gốc động vật, sản phẩm lên men.
- Vitamin C (axit ascorbic)
Vitamin C tham gia quá trình hình thành collagen, chuyển hoá tyrosine và tryptophan, chuyển hoá mỡ và kiểm soát cholesterol, hấp thu và vận chuyển sắt, tăng sức bền thành mạch. Vitamin C còn có vai trò của một chất chống oxy hoá. Gây bệnh scorbus (bệnh hoại huyết), sưng và chảy máu chân răng, yếu xương. Có thể cung cấp vitamin C tổng hợp hay các sản phẩm giàu vitamin C như chanh, bã chanh, cỏ xanh.Vitamin C rất dễ bị phá huỷ khi dự trữ và chế biến.
Cơ thể gia cầm có thể tổng hợp được vitamin C, tuy nhiên bổ sung vitamin C vào khẩu phần ăn đã có tác dụng tốt đến sức khoẻ của chim. Việc bổ sung vitamin C có hiệu quả rõ rệt trong điều kiện stress, đặc biệt là strres nóng ẩm trong mùa hè ở nước ta, khi nhu cầu vitamin C tăng cao nhưng khả năng tổng hợp của cơ thể lại giảm, dẫn đến thiếu vitamin C. Một điểm rất đáng chú ý là khả năng tổng hợp vitamin C của chim kém hiệu quả trong giai đoạn còn non hay đã già.
Bổ sung vitamin C trong giai đoạn chim con có tác dụng làm cho xương chắc hơn còn đối với gà mái đẻ giai đoạn cuối có tác dụng làm tăng chất lượng vỏ trứng và làm giảm tỷ lệ trứng bị dập vỡ.
Vitamin C tăng tổng hợp collagen trong quá trình hình thành xương và ảnh hưởng đến quá trình phát triển đĩa đệm. Chim con được bổ sung vitamin C đã làm tăng lượng collagen và proteoglycan, đây là hai nhân tố quan trọng cho việc hình thành đĩa đệm.
Đối với quá trình hình thành vỏ trứng: đủ vitamin C là nhân tố quan trọng giúp cho quá trình chuyển vitamin D thành dạng hormon hoạt động canxitriol (1,25-(OH)2D3, làm tăng hấp thu Ca ở ruột và làm tăng Ca huyết tương, tạo thuận lợi cho quá trình khoáng hoá của xương cũng như quá trình hình thành vỏ trứng.
Bổ sung vitamin C làm tăng hoạt động của protein liên kết với Ca ở ruột, tăng chuyển hoá Ca, tăng lượng canxitriol trong máu. Khi bổ sụng vitamin C, hiệu quả tổng hợp canxitriol ở chim con là 16,6% tăng dần đến 33,3% ở 20-30 ngày tuổi. Tác dụng của việc bổ sung vitamin C đến sự phát triển của xương trên chim con có hiệu quả đến 5 tuần tuổi, sau 5 tuần tuổi, chim có khả năng tự tổng hợp vitamin C. Ngoài ra, bổ sung vitamin C còn làm cho chim tăng trọng cao hơn.
Đối với chim đẻ trứng giai đoạn cuối, khả năng tổng hợp vitamin C giảm khi già đi, xương sẽ dòn dễ gãy hơn do phải huy động Ca để tạo vỏ trứng. Mặt khác, vỏ trứng mỏng và dễ vỡ hơn vì khả năng huy động Ca từ xương giảm. Do đó, bổ sung vitamin C với lượng 2000 - 3000 ppm trong thức ăn vào giai đoạn cuối của kỳ đẻ trứng đã có tác dụng làm tăng độ dày của vỏ trứng, giảm tỉ lệ trứng bị dập vỡ, tăng khối lượng trứng; tăng Ca huyết tương và hàm lượng khoáng tổng số của xương (Bùi Hữu Đoàn,1999).
Đặc biệt khi bổ sung vitamin C kết hợp với vitamin D ở dạng Canxitriol [1,25-(OH)2D3] cho gà đẻ trứng giai đoạn cuối (sau 50 tuần tuổi) đã làm giảm tỷ lệ trứng dập vỡ và trứng mỏng vỏ hơn là bổ sung đơn lẻ vitamin D hay vitamin C.
Nên bổ sung thêm 100 - 200 ppm vitamin C vào thức ăn của gia cầm, chim con trong 3 tuần tuổi đầu và kỳ đẻ trứng cuối của thời kỳ đẻ trứng. Với các loại chim cầm khác nên bổ sung thêm vitamin C khi có stress nhiệt. Bổ sung vitamin C có tác dụng rất tốt cho chim trống cũng như các loại chim, đà điểu khi vận chuyển, trước khi giết mổ¼ làm giảm tác hại do stress vận chuyển lên cơ thể và chất lượng thân thịt.
2.1.5 Nhu cầu các chất khoáng
Các chất khoáng giữ một vai trò quan trọng trong cơ thể chim. Nó có mặt trong mọi cơ quan và tổ chức của cơ thể và tham gia nhiều chức năng quan trọng như chức năng tạo hình, tham gia các phản ứng sinh hoá học (trong thành phần nhóm ghép của nhiều enzym, trực tiếp tham gia xúc tác các phản ứng sinh hoá học), ổn định protein ở trạng thái keo trong tế bào mô. Các chất khoáng còn hoạt động như một chất kích thích hay ức chế các hoạt động sinh lý của cơ thể. Tham gia hình thành các muối, hệ thống đệm và duy trì áp suất thẩm thấu của dịch tế bào và của máu. Các chất khoáng được chia làm hai nhóm chính :
- Khoáng đa lượng: được tính theo g/kg hoặc bằng %, gồm Ca, P, Na, Cl, K, S và Mg.
- Khoáng vi lượng: được tính bằng mg/kg hay ppm (part per million = phần triệu).
a. Canxi và Photspho (Ca và P)
Ngoài nhiệm vụ chính tham gia cấu trúc bộ xương, Ca và P còn tham gia hình thành vỏ trứng, có mặt trong huyết thanh. P còn có trong thành phần các nucleoproteit và nucleotit. Nếu trong khẩu phần ăn thiếu canxi và photspho sẽ làm chim con còi cọc, chim trưởng thành bị bệnh về xương, chim mái đẻ trứng mỏng vỏ hay hoàn toàn không có vỏ. Tuy nhiên nhu cầu canxi và photspho tuỳ thuộc vào mỗi loại chim khác nhau, hướng sản xuất, lứa tuổi và sức sản xuất. Nếu thừa canxi và photspho thì chúng bị thải ra ngoài, do đó thường làm hoại tử, thoái hoá thận, thậm chí còn làm chim chết. Nếu thừa P sẽ dẫn đến thiếu Ca, đây là một điểm đáng lưu ý khi bổ sung Ca và P trong khẩu phần ăn cho chim.
Trong giai đoạn hậu bị, nhu cầu Ca và P như đối với chim sinh trưởng bình thường. Giai đoạn tiền đẻ trứng có thể cho ăn thức ăn có nhu cầu canxi như giai đoạn hậu bị hoặc tăng lên từ từ. Khi chim đẻ từ 5 - 10% mới được sử dụng nhu cầu canxi và photspho của gia cầm đẻ trứng. Tỷ lệ Ca:P thích hợp trong khẩu phần 2:1. Khi khẩu phần thiếu Ca và P cần phải bổ sung bằng nguồn thức ăn giàu Ca và P. Khẩu phần của chim thường thiếu Ca. Thức ăn thực vật nghèo Ca và P hơn thức ăn động vật. Trong thức ăn thực vật P phần lớn ở dưới dạng axit phytic (1/2 số lượng P tổng số) rất khó lợi dụng. Chim không có phytase, cho nên không lợi dụng được axit phytic. Vì thế với những khẩu phần của chim, chủ yếu là thức ăn thực vật, thì phải bổ sung thêm P nguồn gốc động vật hay khoáng vật như mono canxi phosphat (15,9% Ca và 24,6% P), dicanxiphosphat (23,35% Ca, 18,21% P), Bột xương (24% Ca, 12% P và 0,64% Mg)...Nguồn cung cấp Ca như bột vỏ sò, hến, mai mực (30-35% Ca); CaCO3 (38% Ca); Bột đá vôi (32% Ca). Nhu cầu của chim sinh sản trong giai đoạn 0 - 20 tuần tuổi từ 1,0 - 1,1% Ca; 0,45% P dễ tiêu; trong giai đoạn đẻ trứng từ 2,5 - 4,0% Ca; 0,45% P dễ tiêu.
b. Natri, kali và clo (Na, K, Cl)
Na+, K+ và Cl- là chất điện giải, khi cơ thể mất nước (do mất máu, ỉa chảy, nôn...) sẽ mất chất điện giải, cân bằng áp suất thẩm thấu giữa trong và ngoài tế bào bị rối loạn, con vật có thể chết. Cl- cần thiết cho việc hình thành HCl trong dạ dày, có tác dụng hoạt hoá pepsinogen thành pepsin để tiêu hoá protein. Na+ và K+ cũng là thành phần của hệ đệm của cơ thể, giúp giữ cân bằng axit-bazơ dịch cơ thể.
Mức NaCl tối thiểu cho chim trong thức ăn là 0,2%, trung bình 0,4%. Chim đẻ trứng giới hạn cho phép không quá 0,8%.
Khẩu phần có hàm lượng NaCl cao sẽ gây độc. Chim nhạy cảm với sự thừa Na và Cl, 14-18g muối ăn mỗi ngày có thể giết chết trong vòng 8-12 giờ. Muối ăn hoà tan trong nước độc hơn cùng số lượng muối trộn vào thức ăn. Nước chứa 0,9% muối đã gây độc, nếu chứa 2% làm cho tất cả chết trong vòng 3 ngày. Bình thường trong khẩu phần ăn của gia cầm và chim, hàm lượng NaCl là 0,3-0,5 % (trừ bồ câu, có nhu cầu muối ăn cao hơn nhiều).
c. Sắt và đồng ( Fe và Cu)
Trong cơ thể, sắt hoạt động là Fe++, chiếm 60-73%, nằm ở hồng cầu, 3-5% tham gia cấu tạo mioglobin trong cơ, 0,1% tham gia cấu tạo men hô hấp trong tế bào; sắt dự trữ: chiếm 20%, dự trữ ở dạng không bền vững trong gan, lách, tủy xương, niêm mạc ruột (ferritin và hemosiderin).
Đồng giữ vai trò sinh lý quan trọng, không yếu tố nào thay thế được đồng trong các yếu tố tham gia cấu tạo máu. Vai trò đặc biệt của đồng là tham gia thúc đẩy tạo huyết, làm cho hồng cầu non mau trưởng thành. Đồng còn tham gia sinh tổng hợp catalase, peroxydase; ức chế hoạt động của phosphatase kiềm, amylase, lipase, pepsin; tăng oxy hóa vitamin C, thúc đẩy tế bào sử dụng vitamin K, E, hoạt hóa insulin và kích thích hoạt động của hormon tuyến yên. Cu tham gia hình thành lông và tham gia tạo sắc tố của lông , do đó thiếu đồng sẽ làm mất màu lông.
Nhu cầu Fe của các loai gia cầm và chim từ 20 - 100 mg/kg thức ăn; nhu cầu Cu từ 3,5 - 8,0mg/kg thức ăn.
d. Kẽm (Zn)
Zn phân bố khắp nơi trong cơ thể và đảm nhiệm nhiều chức năng trong trao đổi chất. Zn là thành phần của nhiều enzym như dehydrogenase, phosphatase, carboxypeptidasa¼, Zn có mặt trong thành phần của insulin. Nó có quan hệ với hơn 70 metaloenzym và tham gia hơn 200 phản ứng sinh hóa của cơ thể. Zn còn có mặt trong hệ thống ADN và ARN - polymeraza nên thiếu kẽm sẽ dẫn đến nhiều tổn thương sinh hoá như cản trở quá trình tổng hợp protein, giảm tổng hợp ADN và ARN dẫn đến giảm quá trình phân bào. Thiếu kẽm còn làm giảm tính thèm ăn, gây tổn thương da, vỏ trứng không bình thường, sinh trưởng kém, lông lưa thưa, xương dài ngắn lại, giảm đẻ trứng, giảm tỷ lệ ấp nở, chim con nở ra bị dị dạng. Nhu cầu Zn trong 1kg thức ăn hỗn hợp tuỳ theo loại chim, dao động trong khoảng 55- 100mg.
e. Mangan ( Mn)
Mn hấp thu ở ruột non, tích lũy ở gan. Mn có mặt ở mọi tổ chức. Mn là thành phần của một số enzym như arginase, glutamintransferase, phosphatase. Mn ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng, tạo máu, sinh tổng hợp axit nucleic, protein, cholesterol và kháng thể. Thiếu Mn, chim sẽ giảm sinh trưởng, giảm đẻ trứng, bị bệnh perosis (teo sụn dưỡng): khớp chày bàn sưng to và biến dạng, sau khi mắc bệnh một tuần xương ống trệch ra khỏi vị trí, gia cầm bị liệt. Đặc biệt thiếu Mn sẽ làm giảm tỷ lệ ấp nở , tỷ lệ chết phôi tăng cao ở ngày ấp 20 và 21, phôi xuất hiện bệnh micromelia.
Thừa Mn (1000 ppm trong thức ăn) gây độc, làm rối loạn chức năng thần kinh, giảm hemoglobin máu, giảm thu nhận thức ăn, sinh trưởng chậm.
Nhu cầu Mn của các loại chim từ 55 - 100 mg/kg thức ăn hỗn hợp. Khi lượng canxi và photspho trong thức ăn tăng lên thì nhu cầu Mn cũng tăng lên.
2.1.6. Nhu cầu về nước uống
Nhu cầu nước hàng ngày của chim được cung cấp từ 3 nguồn là nước nội sinh, nước trong thức ăn và nước uống. Nước uống cung cấp hàng ngày cho chim phải đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, đáp ứng nhu cầu theo lứa tuổi và khả năng sản xuất.
a. Phương pháp tính nhu cầu nước uống
- Tính nhu cầu nước uống cho chim sinh trưởng
Nhu cầu nước uống cho chim đang sinh trưởng được tính theo tỷ lệ nước và thức ăn trong nhiệt độ thích hợp là 2/1, đà điểu là 3/1. Khi nhiệt độ môi trường tăng cao, nhu cầu nước cũng tăng theo.
- Tính nhu cầu nước uống cho chim đẻ trứng
Nhu cầu nước uống cho chim đẻ trứng cũng được tính theo tỷ lệ nước và thức ăn trong nhiệt độ thích hợp là 3/1.
Ngoài lượng thức ăn, nhu cầu nước uống của chim phụ thuộc rõ rệt vào nhiệt độ môi trường. Khi nhiệt độ môi trường tăng thêm 1oC thì nhu cầu nước uống tăng thêm 2%. Khi vượt quá 30oC thì nhiệt độ môi trường tăng thêm 1oC, nhu cầu nước uống sẽ tăng lên 6%. Đối với chim đẻ, khi nhiệt độ môi trường >35oC có thể tính nhu cầu nước uống theo tỷ lệ nước và thức ăn là 4,7/1. Nhìn chung, ngoài một số trường hợp đặc biệt, người ta cho chim uống nước sạch theo nhu cầu.
b. Những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu nước uống
- Nhiệt độ môi trường
Nhiệt độ môi trường tăng lên thì nhu cầu nước uống cũng tăng lên. Nhiệt độ môi trường ở 32 oC, lượng nước uống tiêu thụ tăng gấp 2 lần ở 21oC.
- Nhiệt độ nước uống
Khi nhiệt độ của nước lớn hơn hoặc bằng 32oC sẽ giảm lượng nước thu nhận của chim. Nhiệt độ của nước là 45oC thì chim không uống. Mùa đông nếu nhiệt độ của nước là 10oC thì lượng nước uống thu nhận tăng lên 25%. Vì vậy cần cung cấp cho chim nước mát, sạch và nhiệt độ ổn định
- Nồng độ muối ăn trong khẩu phần
Khẩu phần có nồng độ muối ăn cao sẽ làm tăng lượng nước uống thu nhận hàng ngày của chim.
- Lượng thức ăn thu nhận
Lượng thức ăn thu nhận hàng ngày càng nhiều thì nhu cầu nước uống càng cao vì nhu cầu nước uống tỷ lệ thuận với lượng thức ăn thu nhận.
- Thời gian chiếu sáng
Tăng thời gian chiếu sáng sẽ làm chim hoạt động nhiều hơn, do đó nhu cầu về nước uống cũng cao hơn.
- Khi vận chuyển hay xáo trộn đàn
Khi vận chuyển hay xáo trộn đàn chim sẽ làm tăng nhu cầu nước uống
- Tính chất của thức ăn
Thức ăn khô sẽ làm chim tiêu thụ nhiều nước uống hơn thức ăn ướt, thức ăn dạng viên làm cho tiêu thụ nhiều nước hơn thức ăn dạng bột.
2.2. SỬ DỤNG THỨC ĂN
2.2.1 Đặc điểm một số loại thức ăn
a. Nhóm thức ăn cung cấp năng lượng
Gồm bột một số loại củ (sắn, khoai), hạt ngũ cốc và phụ phẩm, các chất dầu, mỡ. Hạt ngũ cốc gồm lúa, ngô, lúa mì, cao lương... và phụ phẩm của hạt ngũ cốc như cám, tấm, là các loại thức ăn giàu tinh bột và giàu năng lượng, chúng có từ 3200 - 3400 kcal năng lượng trao đổi trong một kilogam. Hàm lượng protein thô 8 - 12%. Đây là loại thức ăn nghèo lyzin, tryptophan và methionin. Hàm lượng xơ thô trong các loại hạt có vỏ như cao lương, lúa gạo, đại mạch từ 7 - 14%; trong các loại hạt trần như ngô, lúa mì thì hàm lượng xơ thô từ 1,8 - 3%. Các loại hạt ngũ cốc nghèo canxi, 1/3 - 2/3 phostpho của hạt ngũ cốc ở dạng axit phitic nên khả năng sử dụng của chim là rất kém.
Trong các loại hạt ngũ cốc thì ngô là thức ăn quan trọng nhất đối với chim.
- Ngô (Zea mays)
Ngô là loại thức ăn chính cung cấp năng lượng cho chim. Trong 1kg ngô có giá trị 3200 - 3400 kcal năng lượngtrao đổi. Hàm lượng xơ trong ngô thấp, hàm lượng protein thô từ 8 - 13% (tình theo vật chất khô). Trong protein thì lyzin, tryptophan, methionin là những axit amin hạn chế nhất, đặc biệt là lyzin. Ngô là loại thức ăn hạt nghèo các chất khoáng như Ca (0,15%), Mn (7,3mg/kg) và đồng (5,4mg/kg). Hiện nay có nhiều giống ngô có màu sắc khác nhau như màu: vàng, đỏ và trắng. Trong ngô vàng và ngô đỏ có nhiều caroten, criptoxantin, xantofin. Trong 1kg ngô vàng có 0,57mg b-Caroten, 15,4mg criptoxantin và 13,67 mg xantofil. Xantofil là sắc tố nhuộm màu chủ yếu của lòng đỏ trứng, mỡ và da.
- Cám gạo
Cám gạo là phụ phẩm chính của ngành xay xát gạo. Trong cám gạo có 12 - 14% protein thô, 14 - 18% dầu. Dầu trong cám gạo rất dễ bị ôxy hoá, do đó cám gạo khó bảo quản và dự trữ. Trong cám gạo còn có nhiều Vitamin nhóm B nhất là B1, trong 1kg cám gạo có khoảng 22,2 mg vitamin B1, 13,1 mg B6 và 0,43 mg biotin. Trong khẩu phần ăn có nhiều cám gạo thì dễ gây thiếu kẽm. 
- Dầu, mỡ
Là loại thức ăn có giá trị năng lượng cao. Bổ sung dầu mỡ                                     vào khẩu phần ăn không những cung cấp thêm năng lượng mà  còn bổ sung thêm một số axit béo quan trọng đối với chim như linoleic. Khi thiếu linoleic, chim con chậm lớn, tăng lượng mỡ ở gan, nhạy cảm với bệnh đường hô hấp; chim mái đẻ giảm sức đẻ trứng, trứng bé, giảm tỉ lệ ấp nở của trứng giống, tăng tỉ lệ trứng chết phôi. Nhu cầu axit linoleic cho chim khoảng 1,4% trong thức ăn hỗn hợp. Hàm lượng dầu mỡ trong thức ăn cho chim không nên vượt quá 6%.
b. Thức ăn giàu protein nguồn gốc thực vật
Nhóm thức ăn protein có nguồn gốc thực vật chủ yếu là các loại hạt họ đậu và phụ phẩm của chúng. Trong các loại hạt họ đậu thì quan trọng nhất là hạt đỗ tương.
- Đỗ tương (Glycine max)
Hàm lượng protein thô trong đỗ tương dao động từ 30 - 38%. Methionin là axit amin hạn chế nhất sau đó là cystein và treonin; khá giàu lysine là axit amin thiếu nhất trong protein hạt ngũ cốc (ngô, lúa..).
Trong hạt đỗ tương sống có các chất kháng Trypsin và Chymotrypsin làm giảm tỷ lệ tiêu hoá và giá trị sinh học của protein. Do đó trước khi sử dụng làm thức ăn cho chim cần được sử lý nhiệt thích hợp để phân huỷ các chất gây hại làm tăng tỷ lệ tiêu hoá và tăng giá trị sinh học của protein.
- Khô dầu
Khô dầu là phụ phẩm của các loại hạt có dầu sau khi đã được ép lấy dầu. Các sản phẩm này bao gồm: khô dầu lạc, khô dầu đỗ tương, khô dầu hướng dương... Thành phần dinh dưỡng của các loại khô dầu biến động phụ thuộc công nghệ ép dầu và chất lượng của hạt. Hàm lượng protein thô của khô dầu lạc nhân khoảng 42 - 45%, nếu khô dầu lạc ép cả vỏ thì hàm lượng protein thấp hơn (37 - 38%) nhưng hàm lượng xơ thô cao hơn (18,8%). Hàm lượng protein thô trong khô đầu đâụ tương từ 40 - 45%; 8,8% xơ thô.
Ngoài khô dầu lạc và khô dầu đậu tương, còn nhiều loại khô dầu khác như khô dầu cải, khô dầu bông, khô dầu lanh, khô dầu dừa v.v... chúng có hàm lượng protein thấp hoặc giá trị sinh học của protein kém hơn, hàm lượng xơ thô cao nên dùng ít hoặc không dùng trong chăn nuôi chim (đặc biệt là thủy cầm).
Các loại khô dầu khi bảo quản dễ bị mốc, nấm mốc của các loại khô dầu thường sản sinh ra các độc tố nấm mốc (Mycotoxin) làm cho chim có thể bị ngộ độc ở mức độ khác nhau tuỳ theo loại độc tố mà nấm mốc sinh ra.
c. Thức ăn giàu protein nguồn gốc động vật
Gồm bột xương, bột thịt xương, bột cá, bột máu, bột đầu tôm...Hầu hết thức ăn động vật là nguồn protein có chất lượng cao, cân bằng các axit amin không thay thế, các nguyên tố khoáng cần thiết và một số vitamin quan trọng như vitamin B12, A, K, D, E... Tỷ lệ tiêu hoá và hấp thu các chất dinh dưỡng trong thức ăn giàu protein động vật rất cao.
- Bột cá
Bột cá là một nguồn cung cấp protein có chất lượng tốt nhất đối với chim. Trong bột cá giàu lysin, methionin và tryptophan.Đó là những loại axit amin thường thiếu nhiều nhất trong khẩu phần ăn chủ yếu là hạt cốc. Hơn nữa, trong bột cá còn có hàm lượng khoáng cao và giầu các loại vitamin. Trong bột cá còn có các " yếu tố chưa xác định được" làm tăng tỷ lệ ấp nở của trứng cũng như sức sinh trưởng. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng bột cá như loại cá nguyên liệu, phương pháp chế biến, thời gian bảo quản và điều kiện bảo quản. Hàm lượng protein trong bột cá sản xuất ở nước ta biến động từ 35 - 60%.
Mức sử dụng bột cá trung bình trong thức ăn hỗn hợp là 10% cho chim con, 8% cho chim vỗ béo và 5 - 6% cho chim đẻ.
Khi sử dụng nhiều bột cá trong khẩu phần, thịt và trứng có mùi tanh dầu cá. Vì vậy, để tránh mùi cá trong thịt, người ta thường ngừng cho ăn bột cá 4 tuần trước khi giết mổ hoặc sử dụng mức tối đa bột cá trong khẩu phần là 2,5 - 5%.
Bột cá loại 1 phải đảm bảo hàm lượng protein thô là 60%, hàm lượng lipit dưới 10%, hàm lượng muối ăn dưới 5%.
- Bột thịt xương
Thành phần dinh dưỡng của bột thịt xương phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu chế biến. Tỷ lệ protein từ 45 -50%, giàu các axit amin, đặc biệt là lysine, methionine, cystine, tryptophane và treonine; giá trị năng lượng trao đổi trong một kg là 2444 - 2660 kcal, khoáng 12 - 35%, lipit trung bình là 9%; bột thịt xương còn rất giàu vitamin B1.
- Bột thịt
Bột thịt có màu nâu vàng và có mùi thịt đặc trưng. Trong bột thịt có 55% protein thô, lipit 10%, độ ẩm tối đa 10%.
- Bột thịt xương gia cầm
Bột thịt xương gia cầm là sản phẩm được chế biến từ phế phụ phẩm sạch của gia cầm giết mổ, như xương, nội tạng và có thể toàn bộ thân thịt gia cầm đã vặt lông. Trong bột gia cầm có 58% protein thô, 11% lipit, 18% khoáng, độ ẩm tối đa 10%. Bột thịt xương gia cầm có màu vàng đến nâu vừa, có mùi gia cầm đặc trưng.
- Bột máu
Hàm lượng protein thô tối thiểu trong bột máu 80%, giàu lysine, tryptophane, tỷ lệ tiêu hóa 95%. Bột máu có màu nâu đỏ, hạt mịn, không hòa tan trong nước.
d.Thức ăn thô xanh
Ngoài các loại thức ăn kể trên, trong chăn nuôi đà điểu còn phải sử dụng thức ăn thô xanh, đó là các loại cỏ tương tự như của loài nhai lại:
Các loại cỏ thuộc họ hòa thảo: cỏ voi (pennisetum pur purenum); cỏ pangola ( digitaria decumbens); cỏ ghine ( pannicum maximum); cỏ lông para (brachiana mutica); cây ngô non (zea mays); cỏ gà ( cyndon dactylon); chè khổng lồ ( trichantera gigantea).
Các loại cỏ thuộc họ đậu: cỏ stylo (stylosanthes); cây kudzu nhiệt đới (pueraria phaseoloides); cây đậu tương dại ( glycine wightiti); cây keo dậu (leucaena leucocephala).
Một số loại rau: bắp cải; rau muống; rau lấp; bèo dâu, bèo lục bình, rau diếp, xà lách...
2.2.2. Qui định sử dụng nguyên liệu thức ăn
a. Qui định kích cỡ hạt khi nghiền thức ăn cho chim
Kích cỡ hạt thức ăn có ảnh hưởng đến quá trình tiêu hoá và từ đó ảnh hưởng đến sức sản xuất của chim. Thức ăn nghiền quá mịn không thích hợp trong chăn nuôi chim. Hạt thức ăn lý tưởng cho chim có đường kính từ 0,8 - 0,9 mm. Tuy nhiên, với các thiết bị hiện nay chúng ta chưa thể nghiền được hạt thức ăn đạt kích thước theo ý muốn.
b. Qui định hàm lượng aflatoxin trong thức ăn cho chim
Các loại gia cầm đều có thể bị ngộ độc bởi aflatoxin. Mức độ mẫn cảm với loại độc tố này khác nhau tuỳ theo loại chim. Theo qui định của Cục Khuyến nông và Khuyến lâm, Bộ NN&PTNT (2003), hàm lượng aflatoxin tổng số < 50 ppb
c. Giới hạn tỷ lệ sử dụng một số loại thức ăn
Khi sử dụng các loại thức ăn để phối hợp khẩu phần cho chim, cần sử dụng các nguyên liệu thức ăn với một tỷ lệ thích hợp. Mỗi loại thức ăn đều có đặc điểm riêng, cần nắm vững các đặc điểm cần lưu ý khi sử dụng cho mỗi loại chim. Cám gạo có giá trị dinh dưỡng tốt, song tỷ lệ dầu và xơ tương đối cao nên không thể dùng nhiều trong khẩu phần ăn cho chim con. Gluten ngô là loại thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, nhưng có mùi hăng, chim không ưa thích mùi vị của nó nên cũng không sử dụng được với tỷ lệ cao v.v¼
2.3. CÁC LOẠI THỨC ĂN HỖN HỢP
2.3.1. Thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh và đậm đặc
Trong chăn nuôi chim người ta thường sản xuất các loại thức ăn hỗn hợp theo nhu cầu từng loại chim ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Thức ăn hỗn hợp thường có hai loại là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (dạng viên hay dạng bột) và thức ăn hỗn hợp đậm đặc.
2.3.2. Thức ăn bổ sung
Thức ăn bổ sung là một chất hoặc một hỗn hợp chất bổ sung vào khẩu phần ăn với một liều nhỏ nhưng làm tăng tốc độ sinh trưởng, tăng hiệu quả sử dụng thức ăn, phòng một số bệnh. Có nhiều loại thức ăn bổ sung khác nhau như thức ăn bổ sung protein (axit amin, nấm men, enzym), thức ăn bổ sung khoáng, vitamin, kháng sinh và các loại thức ăn bổ sung khác.
- Thức ăn bổ sung protein
Sử dụng axit amin tổng hợp để bổ sung protein, không những tiết kiệm protein mà còn giúp cân bằng axit amin trong khẩu phần, tăng hiệu quả sử dụng protein và hạ giá thành sản phẩm chăn nuôi chim. Ngoài axit amin, còn sử dụng thêm các sản phẩm nấm men làm nguồn thức ăn bổ sung protein. Nấm men giàu protein, vitamin, nhất là vitamin nhóm B.
- Enzym
Enzym là các protein tự nhiên có hoạt tính enzym; các enzymđược tạo ra từ các cơ thể sống. Trong công nghiệp, enzym được sản xuất từ các vi sinh vật (vi khuẩn, nấm, men) bằng cách lên men hoặc chiết từ tuỵ và các mô động vật khác. Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại KEMZYM DRY. Khi bổ sung kemzym cho chim thịt đã làm tăng trọng cao hơn, hiệu quả sử dụng thức ăn tốt hơn và làm giảm độ ẩm của lớp độn chuồng. Sự sai khác là rất rõ rệt với p < 0,01.
- Thức ăn bổ sung khoáng và vitamin
Thức ăn bổ sung khoáng gồm nhiều loại như bột vỏ sò, bột xương, bột vỏ trứng, bột đá, dicanxi photphat v.v... Các loại này chủ yếu cung cấp canxi và photspho. Để bổ sung các nguyên tố vi lượng, người ta thường bổ sung dưới dạng hỗn hợp premix khoáng hoặc hỗn hợp premix khoáng - vitamin. Thức ăn bổ sung vitamin có thể là những vitamin đơn lẻ như A, D, E, K, B1, B2, B12, C, ¼ hoặc là hỗn hợp vitamin dưới dạng premix. Khi sử dụng các loại premix cần đặc biệt chú ý hạn sử dụng.
- Chất nhuộm màu
Để nhuộm màu cho lòng đỏ trứng chim người ta dùng xantofill, có nhiều trong các loại rau cỏ, bột thức ăn xanh, bột cánh hoa cúc vạn thọ. Một số sản phẩm nhuộm màu như ORO GLO, KEM GLO, Beta-Apo-8- carotenal, caroten tự nhiên, canthaxantin. Hiện nay, người ta đã xác định được rằng bổ sung khô dầu gấc - một loại phụ phẩm rất rẻ và đễ kiếm ở Việt Nam cho chim đẻ có kết quả rất tốt trong việc nâng cao độ đậm màu cho sản phẩm là trứng và thịt và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
-Một số điểm chú ý khi tự phối trộn thức ăn cho chim
Để giảm giá thành sản phẩm, có thể tự chế thức ăn cho chim, nhưng cần chú ý:
-Phải có kiến thức về dinh dưỡng, thức ăn và kinh nghiệm.
-Tận dụng nguyên liệu sẵn có ở địa phương, nhất là trong mùa thu hoạch rộ như ngô, đậu tương, cá tươi (để làm bột cá)¼ Phải có kho dự trữ chống được chuột, mối, mọt, chống ẩm¼
-Khi mua nguyên liệu, phải mua nguyên liệu thô (ngũ cốc phải mua hạt, khô dầu chưa nghiền¼ để phát hiện được mọt, mốc¼(khi đã nghiền ra thành bột rồi thì rất khó phát hiện nguyên liệu kém hay tốt).
-Sau khi nghiền, các nguyên liệu cần để riêng. Chỉ trộn thức ăn vừa đủ cho chim ăn trong vài ngày đẻ tránh mốc, vón, mất mùi. Cần dùng máy trộn để trộn thức ăn được đều, đây là yếu tố rất quan trọng để đảm bảo chất lượng thức ăn cũng như hiệu quả sử dụng thức ăn.
2.4. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG THỨC ĂN (FCR)
2.4.1. Khái niệm về hiệu quả sử dụng thức ăn
Hiện nay, có hai khái niệm về hiệu quả sử dụng thức ăn: là số sản phẩm thu được khi sử dụng 1 kg thức ăn hoặc tiêu tốn thức ăn cho một đơn vị sản phẩm (FCR: Feed Conversion Ratio - Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng trọng).
Trong chăn nuôi gia cầm và chim ở nước ta, thường đánh giá hiệu quả sử dụng thức ăn thông qua chỉ số tiêu tốn thức ăn cho một đơn vị sản phẩm: kg thức ăn/kg tăng trọng hay kg thức ăn/10 quả trứng, kg thức ăn/kg trứng, kg thức ăn/ chim hậu bị¼
2.4.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng thức ăn
a. Loài, giống, dòng, cá thể
Mỗi loài, giống, dòng hay cá thể đều có kiểu di truyền riêng, từ đó ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất khác nhau nên hiệu quả sử dụng thức ăn cũng khác nhau.
b. Kỹ thuật nhân giống
Trong kỹ thuật nhân giống thuần, cần tránh hiện tượng giao phối đồng huyết. Trong các công thức lai, việc sử dụng ưu thế lai đã có ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng thức ăn.
c. Tuổi
Tuổi của chim có ảnh hưởng đến khả năng tiêu hoá thức ăn, từ đó có ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng thức ăn. Tuy nhiên vấn đề quan trọng hơn là ở chỗ quá trình sinh trưởng và phát triển của động vật nói chung và chim nói riêng đều tuân theo qui luật phát triển theo giai đoạn và không đồng đều. Trong giai đoạn tuổi còn non, sự tăng trọng không chỉ là sự tăng lên về kích thước, về khối lượng của tế bào mà còn là tăng lên cả về số lượng tế bào nên cường độ sinh trưởng hay sinh trưởng tương đối là rất cao nên hiệu quả sử dụng thức ăn cũng tốt hơn. Mặt khác, trong giai đoạn tuổi còn non, khả năng tích luỹ mỡ rất hạn chế nên tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng thường thấp hơn, hiệu quả sử dụng thức ăn tốt hơn so với tuổi trưởng thành.
d. Công nghệ chế biến thức ăn
Công nghệ chế biến thức ăn bao gồm mức độ hiện đại của các thiết bị chế biến; kích cỡ hạt nghiền; xử lý các chất độc hại trong nguyên liệu thức ăn chăn nuôi; kỹ thuật trộn; dạng thức ăn khi chế biến và qui trình công nghệ chế biến. Tất cả những vấn đề này đều có ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng thức ăn. Ví dụ công nghệ ép đùn sử dụng trong qui trình chế biến thức ăn chăn nuôi đã làm tăng tỷ lệ tiêu hoá các chất dinh dưỡng trong một số loại nguyên liệu thức ăn (đỗ tương, ngô v.v¼), từ đó mà ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng thức ăn. Thức ăn dạng viên giúp cho chim thu nhận thức ăn tốt hơn, thu nhận đầy đủ các chất dinh dưỡng trong hỗn hợp thức ăn và giảm thiểu được sự mất mát thức ăn trong quá trình ăn nên cũng làm tăng hiệu quả sử dụng thức ăn. Việc xử lý tốt các chất độc hại có trong nguyên liệu thức ăn (antitripsin trong đỗ tương, HCN,) sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn.
Ngay trong kỹ thuật trộn, nếu không trộn đều hỗn hợp thức ăn, nhất là với các loại thức ăn có hoạt tính sinh học (vitamin và khoáng vi lượng) chỉ sử dụng với tỷ lệ nhỏ trong hỗn hợp cũng sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng thức ăn.
Thức ăn cho bồ câu còn cần chú ý đến màu sắc nữa, chim bồ câu rấ thích thức ăn có màu đẹp như nâu sẫm, hồng hay vàng.
e. Tính chất của khẩu phần
Khẩu phần đầy đủ và cân bằng các chất dinh dưỡng sẽ giúp cho chim sử dụng thức ăn hiệu quả nhất. Nếu hàm lượng xơ trong khẩu phần cao, gia cầm phải tốn thêm năng lượng để tiêu hoá xơ, để loại thải xơ ra khỏi cơ thể nên sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng thức ăn (trừ đà điểu). Thức ăn không cân bằng các chất dinh dưỡng, đặc biệt là không cân bằng axit amin sẽ làm giảm đáng kể hiệu quả sử dụng thức ăn. Mức năng lượng và hàm lượng protein trong khẩu phần có ảnh hưởng rõ rệt tới hiệu quả sử dụng thức ăn.
h. Kỹ thuật bảo quản thức ăn
Kỹ thuật bảo quản thức ăn cũng ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng thức ăn. Nếu thức ăn bảo quản không tốt, quá hạn sử dụng, mất mùi thơm, bị ôi, mốc không những làm giảm hiệu quả sử dụng thức ăn mà còn ảnh hưởng đến sức khoẻ và khả năng sản xuất của chim.
i. Tiểu khí hậu chuồng nuôi
Tiểu khí hậu chuồng nuôi bao gồm nhiệt độ, độ ẩm, sự thông thoáng không phù hợp và những yếu tố stress đều làm giảm hiệu quả sử dụng thức ăn.
k. Qui trình chăn nuôi
Qui trình chăn nuôi bao gồm phương thức nuôi, qui mô đàn, kỹ thuật cho ăn, máng ăn, máng uống, bổ sung sỏi v.v¼ đều ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng thức ăn của chim.

Chương 3
SỨC SẢN XUẤT CỦA CHIM
Trong quá trình tạo giống chim nuôi, tuỳ mục đích mà người ta tạo ra các giống theo các hướng cho sản phẩm khác nhau: chuyên thịt hoặc chuyên trứng. Chim cút được nuôi để lấy cả trứng và thịt. Nuôi chim bồ câu thì chủ yếu lấy thịt nhưng chim phải đẻ tốt thì mới có khả năng nhân đàn. Như vậy, dù lấy trứng hay thịt thì khả năng sinh sản cũng đều quan trọng trong nghề nuôi chim.
Trong những năm qua, các nhà chọn giống đã đạt được những thành tựu thật đáng khâm phục, ví dụ điển hình là từ một loài chim cút hoang dại, 6 tháng tuổi mới thành thục, một năm chỉ đẻ vài chục quả trứng¼ người ta đã tạo ra được các giống chim cút hiện nay, chỉ 5 tuần tuổi đã có khả năng đẻ bói, đẻ từ 250 - 350, thậm chí gần 400 trứng/năm. Ở những cơ sở chăn nuôi tiên tiến, từ một con chim cút giống, có thể thu được trên 250 con chim con /năm (chỉ tiêu này ở đà điểu là 40- 50 con, và bồ câu là 12-14 con).
3.1. SỨC SẢN XUẤT TRỨNG
3.1.1. Cấu tạo trứng chim
Trứng chim có "hình trứng", đó là hình bầu dục không cân đối - hình Kassini, một đầu tù và một đầu nhọn. Trong thực tiễn, hình dạng trứng được biểu hiện bằng chỉ số hình thái (CSHT): đó là tỷ số giữa giữa đường kính lớn/ đường kính nhỏ, chỉ số này biến thiên từ 1,10 - 1,45.
Trứng gồm 3 phần: vỏ, lòng trắng và lòng đỏ với tỷ lệ tương đối giữa các phần đó ở gà là 1/6/3. Ở các loài chim khác nhau thì tỷ lệ này cũng khác nhau. 
Lòng đỏ chính là tế bào trứng. Tỷ lệ lòng đỏ thấp nhất là ở đà điểu (20,9%, tiếp theo là bồ câu, 26,1 %; thấp hơn rất nhiều so với các loài chim khác).
Trứng có vỏ đá vôi bao bọc, bề dày là 0,10 - 0,15mm ở chim bồ câu và chim cút, 0,32 - 0,35 mm ở trứng gà; 2,0 - 2,5 mm ở đà điểu (dày gấp 9 - 10 lần vỏ trứng gà). Bên ngoài vỏ cứng của trứng được phủ một lớp chất nhầy trong suốt (lớp mô sừng) và ở trong có màng lụa gồm hai lớp chắc. Mặt ngoài vỏ cứng hơi bóng và có "ánh" đặc biệt với mức độ khác nhau tuỳ theo trạng thái lớp mô sừng và cấu tạo của vỏ cứng. Màu của vỏ trứng thay đổi từ trắng (chim bồ câu), trắng ngà (đà điểu) hay lốm đốm nâu (chim cút). Vỏ trứng gồm chất hữu cơ, xen lẫn các muối vô cơ. Chất hữu cơ do protein, giống như keo colagen (4%) tạo thành, chất vô cơ là carbonat canxi (94%), carbonat magie và canxi photphat (1%) tạo thành.
Trên vỏ cứng có nhiều lỗ khí, có ý nghĩa quan trọng khi ấp trứng. Trong thời kỳ phôi phát triển, sự trao đổi khí giữa ph2ôi và môi trường qua những lỗ khí này. Khi ấp trứng, phôi có thể bị chết nếu nếu số lỗ khí/ 1 cm ít hoặc các lỗ khí quá hẹp, vỏ quá dày. Vào cuối thời kỳ ấp, sự giảm khối lượng trứng do bốc hơi nước có vai trò quan trọng. Nếu vỏ trứng có quá nhiều lỗ khí và độ ẩm không khí trong máy ấp thấp thì sẽ có ảnh hưởng bất lợi đối với phôi do mất nước quá nhiều.
Ở đầu nhọn của trứng, mật độ lỗ hơ2i ít hơn, còn ở đầu tù thì nhiều hơn so với phần giữa của trứng.
Trung bình, có 100-150 lỗ khí/1cm .

Hình 3.1. Sơ đồ cấu tạo lớp vỏ cứng của trứng chim
Dưới vỏ cứng có vỏ lụa gồm hai lớp: lớp trong gọi là lớp màng trứng, lớp ngoài dán chặt vào vỏ cứng gọi là lớp màng vỏ cứng. Ở phía đầu tù, vỏ dày hơn và ở đầu nhọn thì mỏng hơn.
Giữa hai lớp này, ngay khi trứng vừa mới đẻ ra, hình thành buồng khí ở đầu tù của trứng.
Hiện tượng này xảy ra do sau khi đẻ, các chất chứa trong trứng bị nguội đi và co lại do nhiệt độ môi trường thấp hơn nhiều so với thân nhiệt cơ thể chim. Trong quá trình bảo quản, nước trong trứng bốc hơi nên thể tích buồng khí tăng lên. Trong thực tiễn, người ta lợi dụng hiện tượng này để đánh giá trứng tươi hay đã cũ. Khi quan sát lớp vỏ lụa bằng kính hiển vi, có thể thấy màng này là một mạng lưới gồm các sợi xếp đặt lộn xộn, do 70% chất hữu cơ (keratin, muxin), 10% chất vô cơ và 20% nước tạo thành.
Khoảng giữa lòng đỏ và vỏ chứa đầy lòng trắng, có nhiều lớp có độ đậm đặc khác nhau tạo thành. Ngay dưới lớp màng trứng là lớp loãng ngoài (khoảng 23% thể tích), sau đó là lớp đặc giữa (57% thể tích) rồi đến lớp loãng giữa (17%) và lớp đặc trong (3% thể tích), lớp cuối cùng này bọc lấy lòng đỏ. Dây chằng nằm dọc theo trục dài của trứng, nhờ có những đầu mút sợi mảnh dán chặt vào lớp này. Dây chằng do nhiều sợi protein tạo thành, những sợi này xoắn lại ở quãng giữa một phần đoạn thành hình xoắn ốc, còn theo hướng ra phía ngoài nó đi vào lớp đặc ở giữa của lòng trắng, giữ cho lòng đỏ luôn nằm ở vị trí trung tâm. Đặc biệt lưu ý rằng, thể tích của các lớp lòng trắng có thể chênh lệch khá nhiều so với các số liệu nêu ở trên.
Lòng trắng trứng tươi có màu vàng nhạt, ngoài ra do có nhiều CO2 nên hơi đục. Đặc tính keo của lớp đặc ở giữa của lòng trắng là do có nhiều sợi muxin, những sợi này tạo thành cấu trúc lưới. Để đánh giá trứng, vấn đề xác định chất lượng và cấu trúc lòng trắng đặc có ý nghĩa quan trọng. Khi cấu trúc lưới bị hỏng,0ví dụ do chấn động thì lòng trắng đặc trở thành loãng.
Nó có phản ứng kiềm, ở nhiệt độ 60 C thì đông lại, biến thành một khối trắng (lòng trắng trứng). Nó chứa gần 88% nước, 0,6% chất khoáng, các cation K, Na, Mg, Ca và Fe, các anion SO4 và Cl. Hàm lượng các sunfat tương đối cao là do có lưu huỳnh trong lòng trắng. Trong số gluxit thì có D - glucoza (gần 0,9%). Các chất protein (11%) là: albumin trứng (6,5%), globulin trứng (0,6%), muxin trứng (1,1%), và mucoit trứng (1,2%). Ngoài ra, trong lòng trắng trứng còn có lavin trứng (chất có màu vàng chứa nitơ), một lượng nhỏ photphatit, cholexterin và keratin.
Lòng đỏ nằm ở trung tâm trứng, do màng lòng đỏ bao xung quanh, vì vậy, trong điều kiện bình thường lòng đỏ không lẫn vào lòng trắng. Màng lòng đỏ mẫn cảm đối với những chấn động cơ học và khi để trứng lâu thì dần dần bị yếu đi. Ở những trứng mới đẻ, nhờ các dây chằng xoắn ốc mà lòng đỏ được cố định ở giữa trứng.

Hình 3.2. Sơ đồ mặt cắt dọc quả trứng chim
Lòng đỏ hình cầu, chủ yếu do noãn hoàng tạo thành, đó là những chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của chim con. Trong lòng đỏ sẫm có một vài lớp sáng gọi là lòng đỏ cấu tạo, ở giữa bị lõm và có hình cái nêm (latebra- rãnh lòng đỏ), ở đấy về phía cực động vật của tế bào trứng có đĩa phôi, do có tỷ trọng nhỏ hơn các vùng khác nên đĩa phôi luôn nằm ở phía trên của lòng đỏ và có xu hướng nổi lên bề mặt trên của quả trứng, nếu để lâu mà không đảo, trứng sẽ bị sát vỏ là vì thế.
Trong thực tế sản xuất, cho đến nay các nhà khoa học cho rằng, chưa có phương pháp nào cho phép phân biệt trứng có phôi hay không khi chưa ấp, vì vậy, để phân biệt 2 loại trứng trên, người ta vẫn phải dùng phương pháp cổ điển là soi trứng sau khi đã ấp được khoảng 4-6 ngày.
Lòng đỏ không hoà tan trong nước và có phản ứng kiềm, thành phần hoá học của lòng đỏ phức tạp hơn lòng trắng.
3.1.2. Thành phần hoá học của trứng
Trong lòng trắng chỉ có dấu vết mỡ và 12,1% chất khô. Mỡ có màu từ vàng nhạt đến vàng thẫm và chứa các chất triglixerit của các axít béo: palmitic, stearic, oleic và cả axit béo tự do và axit glixerinophotphoric. Ngoài ra còn chứa cholexterin không bị kiềm hoá và cả các photphat lexitin. Sắc tố vàng của lòng đỏ (vitellolutein) không phải là sản phẩm động vật của trao đổi chất mà cấu tạo từ các chất màu có nguồn gốc thực vật. Những sắc tố vàng và đỏ chứa trong lòng đỏ không phải được tổng hợp trong cơ thể gà mái mà chuyển từ thức ăn vào trứng. Tuỳ theo số lượng các sắc tố mà lòng đỏ có màu đậm hay nhạt, những màu khác nhau này là do tương quan số lượng giữa các hợp phần có màu riêng biệt quyết định. Những hợp phần chủ yếu là - lutein (hỗn hợp các chất carotinoit- xantofil và zeakxantin), carotin và flavin trứng. Chúng được hấp thu từ thức ăn thực vật, đi qua màng ruột non, qua đường bạch huyết mà vào hệ tuần hoàn và tích luỹ lại trong mỡ của cơ thể và lòng đỏ trứng.
Những thành phần chủ yếu của các chất protein lòng đỏ là: vitellin (3/4 chất protein), albumin nhân, livetin và cả những chất có chứa lưu huỳnh của hai protein này ở dạng sản phẩm thuỷ phân của chúng là tirozin, tryptophan và cystin.
Tỷ lệ các thành phần cấu tạo của trứng chim thay đổi phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như loài, giống, cá thể, chế độ dinh dưỡng, tuổi trứng, điều kiện bảo quản v.v¼
Ở các loài gia cầm khác nhau thì thành phần hoá học của trứng cũng khác nhau. Thành phần hoá học của vỏ cứng gồm chất hữu cơ và chất vô cơ. Chất vô cơ chủ yếu là cacbonatcanxi ở dạng tinh thể chiếm 93%; oxytmagie 1,4% ; 0,6% anhydric photphoric; 4% chất hữu cơ (chủ yếu là protein ở dạng các sợi colagen) và 1% là nước. Màu sắc vỏ trứng có nhiều loại khác nhau: trắng, nâu, vàng, xanh, xám¼ do sắc tố màu tiết ra từ tử cung.
Thành phần hoá học của lớp màng dưới vỏ gồm 70% là chất hữu cơ ( chủ yếu là keratin và muxin, đó là loại protein keo dính chứa nhiều lưu huỳnh, chúng tạo thành từng bó bện lại với nhau); 10% chất vô cơ (các ion canxi và một số ion khác) và 20% nước.
- Lòng trắng chiếm 50,2 - 57,0% khối lượng trứng; tỷ trọng từ 1,039 - 1,042; pH từ 7,9 - 8,6 (thay đổi theo thời gian bảo quản trứng). Lòng trắng trứng tươi có màu hơi đục do có nhiều khí cacbonic. Đặc tính keo của các lớp lòng trắng là do sợi muxin, những sợi này tạo thành cấu trúc lưới. Thành phần hoá học của lòng trắng gồm nước (85 - 87%) và vật chất khô. Trong chất khô có các chất hữu cơ như protein, lipit, gluxit và các chất vô cơ chủ yếu là các chất khoáng. Trong lòng trắng có nhiều loại protein khác nhau, chủ yếu là anbumin (ovalbumin 54% và conalbumin chiếm 13%), đây là loại protein hoà tan trong nước và trong muối trung tính; khi đun nóng, nó dễ đông vón lại. Trong thành phần protein của lòng trắng trứng còn có mucoprotein và muxin thuộc nhóm glucoprotein. Ovomucoit chiếm 11% trong các protein của lòng trắng trứng, đây là chất ức chế men trypsin trong dịch tụy. Globulin chiếm khoảng 8%. Protein của lòng trắng trứng còn có tác dụng chống vi khuẩn, tác dụng này là nhờ các enzim, đặc biệt là lisozim (3,5%). Avidin chỉ chiếm 0,05%, nó là chất phá huỷ biotin. Trong lòng trắng có rất ít lipit (0,03 - 0,23%) và khoáng (0,5 - 0,8%). Ngoài ra trong lòng trắng còn có các ion sắt, chúng liên kết chặt chẽ với các hợp chất protein nên vi sinh vật không lợi dụng được.
- Lòng đỏ là phần giàu chất dinh dưỡng nhất của trứng. Tỷ trọng của lòng đỏ trứng từ 1,028 - 1,035. Trong lòng đỏ có chứa tất cả các nhóm chất dinh dưỡng cần thiết. Thành phần hoá học gồm khoảng 16,0 - 17,5% protein; 32,0 - 36,0% lipit; 0,2 - 0,3% là gluxit và 1,02 - 1,20% các chất khoáng. Trong các loại protein thì ovovitelin chiếm nhiều nhất (78,4%); ovolivetin chiếm khoảng 2,1%. Lipit của lòng đỏ chứa nhiều các axit béo như palmitic, stearic, oleic cùng nhiều axit béo chưa no. Trong lòng đỏ còn có những chất lipit như photphatit của loxitin và caphalin. Lòng đỏ còn chứa các sắc tố lutein và zeacxantin, nằm trong nhóm các sắc tố thực vật xantophin. Lòng đỏ còn rất giàu muối khoáng: K, Na, Mg, Ca ở các dạng sunfat, photphat, clorua.
Ngoài các chất dinh dưỡng như protein, lipit và các chất khoáng khác nhau, trong trứng còn có nhiều loại vitamin như vitamin A, D, E, K và các vitamin nhóm B. Như vậy trứng là loại sản phẩm thoả mãn nhu cầu nhiều mặt về giá trị dinh dưỡng. Giá trị năng lượng của trứng tương đối cao, trong 100 g trứng có giá trị trung bình 160 - 200 kcal¼ Chính vì vậy, Bách khoa toàn thư về thực phẩm của Hoa kỳ đã viết: "Trứng là kỳ tích của thiên nhiên, là một trong những thực phẩm hoàn hảo nhất mà nhân loại từng biết đến..."
3.1.3. Những chỉ tiêu đánh giá chất lượng trứng
Để đánh giá chất lượng trứng, người ta thường dùng các chỉ tiêu bên ngoài như màu sắc vỏ, khối lượng trứng, chỉ số hình thái trứng và các chỉ tiêu bên trong như chỉ số lòng đỏ, chỉ số lòng trắng, đơn vị Haugh, tỷ lệ lòng trắng/lòng đỏ. Riêng chất lượng vỏ trứng vừa là chỉ tiêu bên ngoài (độ chịu lực), vừa là chỉ tiêu bên trong (độ dày vỏ và mật độ lỗ khí).
a. Màu sắc vỏ trứng
Màu sắc vỏ trứng là một tính trạng có hệ số di truyền cao (0,55 - 0,75), do sắc tố được tiết ra ở phần tử cung của ống dẫn trứng quyết định. Màu sắc vỏ trứng chim có rất nhiều loại: vàng, nâu đỏ, xanh, trắng, đốm¼ Thường những quả trứng đẻ đầu chu kỳ có màu đậm hơn. Màu sắc vỏ trứng khác nhau tuỳ theo giống, dòng chim. Thực tế màu sắc vỏ trứng không ảnh hưởng đến chất lượng trứng, song nó có ảnh hưởng đến kỹ thuật kiểm tra trứng ấp và thị hiếu của người tiêu dùng. Trứng chim cút màu tối, có đốm nâu nên phải soi với nguồn sáng mạnh, trong phòng tối.
b. Khối lượng trứng
Khối lượng quả trứng không những là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng trứng mà còn là một chỉ tiêu đánh giá sản lượng trứng. Sản lượng trứng giống nhau nhưng khối lượng trứng khác nhau thì tổng khối lượng trứng rất khác nhau, do đó ảnh hưởng đến thu nhập, sản lượng và giá cả. Vì vậy khối lượng trứng là chỉ tiêu để đánh giá sản lượng trứng tuyệt đối của chim.
Khối lượng trứng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như loài giống, hướng sản xuất, cá thể, chế độ dinh dưỡng, tuổi chim mái, khối lượng chim mái¼
Trong kỹ thuật lựa chọn trứng ấp, những quả trứng có khối lượng xung quanh khối lượng trung bình của giống luôn có kết quả ấp nở tốt nhất. Khối lượng trứng càng xa trị số trung bình, tỷ lệ nở càng thấp hơn. Nguyên nhân sinh lý của hiện tượng này là sự mất cân đối giữa các thành phần cấu tạo của trứng. Ngoài ra, ở những quả trứng quá lớn hay quá nhỏ, diện tích bề mặt tính trên một đơn vị khối lượng sẽ nhỏ hơn hay lớn hơn so với các quả trứng trung bình, điều đó đã ảnh hưởng đến sự hao hụt khối lượng trứng trong thời gian ấp nên đã ảnh hưởng đến kết quả ấp nở.
c. Chỉ số hình dạng của trứng
Hình dạng trứng của các loài, giống chim khác nhau thì khác nhau và phụ thuộc vào đặc điểm di truyền. Nó còn phụ thuộc vào cấu tạo của ống dẫn trứng và đặc điểm co bóp của nó trong quá trình tạo trứng. Chỉ số hình dạng được tính bằng công thức D/d hoặc d/D (D - là đường kính lớn và d - là đường kính nhỏ của trứng).
Chỉ số hình dạng trứng đà điểu, nếu thể hiện bằng d/D, dao động từ 76,0 - 85,5. Trứng gà là 73 - 78, bồ câu: 0,71-0,75, và chim cút là 0,70-0,75
Những trứng có chỉ số hình dạng xung quanh trị số trung bình của dòng, giống có tỷ lệ nở tốt nhất, càng xa số trung bình thì tỷ lệ nở càng kém. Khi chọn trứng chim, cần loại bỏ những trứng có hình dạng không bình thường hay còn gọi là trứng dị hình như: quá to (có nhiều hơn 1 lòng đỏ), quá nhỏ (trứng giả, không có lòng đỏ), trứng vỏ mềm, trứng ở trong trứng, trứng dị dạng (quá dài, quá tròn, thắt eo v.v...).
d. Chất lượng vỏ trứng
Chất lượng vỏ trứng hay độ bền vỏ trứng được đánh giá thông qua các chỉ tiêu như độ chịu lực, độ dày vỏ và mật độ lỗ khí.
Độ dày vỏ trứng có ý nghĩa quan trọng cả về kỹ thuật và kinh tế. Nó liên quan chặt với tỷ lệ dập vỡ trong quá trình đóng gói, ấp trứng, vận chuyển và ảnh hưởng đến tỷ lệ nở. Độ dày vỏ trứng biến động trong khoảng 0,10 - 0,20 mm ở trứng bồ câu, chim cút, 2,0 - 2,2 mm ở trứng đà điểu. Độ dày vỏ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng quan trọng nhất là hàm lượng canxi phốt pho và vitamin D trong khẩu phần cũng như mùa vụ trong năm.
e. Tỷ lệ giữa khối lượng lòng trắng và lòng đỏ
Người ta xác định khối lượng lòng trắng và lòng đỏ để thiết lập tỷ lệ lòng trắng và lòng đỏ, tỷ lệ này có liên quan đến kết quả ấp nở. Trong cùng một giống, thường những quả trứng có khối lượng lớn thì tỷ lệ này cũng lớn hơn và ngược lại.
Ở bồ câu lòng đỏ chiếm khoảng 1/3 khối lượng trứng.
Màu sắc lòng đỏ trứng được đánh giá bằng cách so màu của lòng đỏ với thang màu của "quạt Roche" (có 15 độ).
h. Chỉ số lòng đỏ
Bằng các dụng cụ riêng, người ta đo được chiều cao của lòng đỏ (H) và đường kính của nó (D), từ đó, xác định chỉ số lòng đỏ (CSLĐ) CSLĐ = H/D. Chỉ số lòng đỏ biểu hiện trạng thái và chất lượng của lòng đỏ, chỉ số này càng cao càng tốt, trứng tươi chỉ số này là 0,4 - 0,5. Chỉ số này thay đổi phụ thuộc vào đặc điểm loài, giống, cá thể, nó giảm dần theo thời gian bảo quản trứng.
Một số đặc tính của trứng đà điểu, gà và chim cút
Bảng 3.4. Những đặc điểm tự nhiên của trứng đà điểu, gà, chim cút và bồ câu
Chỉ tiêu                        Đà điểu                              Chim cút        Bồ câu (*)
Khối lượng (g)               1,522                 57                   10                 24,3
Lòng trắng (g)                 904                 32,5                   5,6               15,8
Tỷ lệ (% trứng)               59,4                  57,1                  56,5              65,1
Lòng đỏ (g)                     318                 17,7                   3,3                6,35
Tỷ lệ (% trứng)               12,0                  31,1                   32,6              26,12
Vỏ (g)                              297                 4,9                    1,0                2,13
Tỷ lệ (% trứng)                19,6                 8,6                    9,9                 8,78
Độ dày vỏ (mm)               210                  0,31                  0,19              0,17
Chỉ số vỏ                          82,8                73,3                  78,3               0,81
(*)Viện Chăn nuôi Quốc gia
Nguồn: M.M. Shanawany, 1999
i. Chỉ số lòng trắng đặc
Chỉ số lòng trắng đặc là tỷ số giữa chiều cao và đường kính trung bình của lòng trắng đặc, có thể tính bằng công thức (1)
                                                                  2H
Chỉ số lòng trắng đặc =    --------   (1)
                                                       D+d
Trong đó:  H: là chiều cao của lòng trắng đặc
                 D: là đường kính lớn của lòng trắng đặc
                 d: là đường kính nhỏ của lòng trắng đặc
Chỉ số này ở trứng tươi bằng 0,08 - 0,09. Chỉ số càng thấp, chất lượng trứng càng kém. Chỉ số này khác nhau tuỳ theo loài, giống và cá thể.
k. Đơn vị Haugh (HU)
Ngoài chỉ số lòng trắng, chất lượng của lòng trắng còn được xác định bằng đơn vị Haugh, đây là một đại lượng biểu thị mối quan hệ giữa khối lượng trứng và chiều cao lòng trắng đặc. Đơn vị Haugh càng cao thì chất lượng trứng càng tốt. Thực nghiệm cho biết, những quả trứng chênh lệch nhau dưới 8 đơn vị Haugh thì có chất lượng trứng tương đương nhau.
Cách tính: đơn vị Haugh được tính bằng công thức (2)
HU = 100 log (H + 7,57 - 1,7 W 0,37) (2)
Trong đó:
HU - Đơn vị Haugh
H - Chiều cao lòng trắng (mm)
W - Khối lượng trứng (g)
Trong thực tế sản xuất, người ta thường sử dụng bảng tính sẵn đơn vị Haugh khi biết chiều cao lòng trắng đặc và khối lượng trứng.
Ngoài các chỉ tiêu trên, có thể sử dụng một số chỉ tiêu khác để đánh giá chất lượng trứng như mật độ lỗ khí của vỏ, độ lớn buồng khí¼
3.1.4. Sức đẻ trứng của chim
a. Một số chỉ tiêu đánh giá sức đẻ trứng
Sức đẻ trứng của chim là số lượng trứng được đẻ ra trong một thời gian nhất định, có thể là một tháng, một vụ, một năm hay một đời chim đẻ. Có nhiều ý kiến và cách tính khác nhau. Hiện nay người ta thường tính sức đẻ trứng trong 365 ngày kể từ khi con chim đẻ quả trứng đầu tiên.
Để đánh giá sức đẻ trứng của chim cút trong từng thời gian nhất định người ta thường dùng một số chỉ tiêu chính như cường độ đẻ trứng, tỷ lệ đẻ trứng, chu kỳ đẻ trứng, sức bền đẻ trứng v.v...
- Cường độ đẻ trứng
Cường độ đẻ trứng là số lượng trứng đẻ ra trong một thời gian xác định không kể đến chu kỳ hay nhịp đẻ.
Cường độ đẻ trứng được tính bằng công thức (3)
 n
                           F =    -------- 100 (3)
                                              n+z
Trong đó F là cường độ đẻ trứng; n là số trứng đẻ ra, z là số ngày nghỉ đẻ.
Cường độ đẻ trứng là chỉ tiêu thường dùng để đánh giá sức đẻ trứng của mỗi cá thể cút. Chỉ tiêu này thường sử dụng trong khi nuôi giữ các đàn giống cần theo dõi năng suất trứng cá thể.
- Tỷ lệ đẻ trứng
Tỷ lệ đẻ trứng là tỷ lệ phần trăm giữa số trứng đẻ ra của đàn chim tại một thời điểm nhất định và số chim có mặt tại thời điểm đó, được sử dụng để đánh giá sức đẻ trứng trên tất cả các đàn chim: giống gốc, đàn bố mẹ, đàn đẻ trứng thương phẩm.
- Chu kỳ đẻ trứng
Chu kỳ đẻ trứng là số trứng đẻ ra liên tục không nghỉ trong một số ngày, chu kỳ đẻ trứng có thể dài hoặc ngắn. Thời gian kéo dài của chu kỳ phụ thuộc vào thời gian hình thành 1 quả trứng. Thời gian hình thành trứng càng dài thì chu kỳ đẻ trứng càng ngắn và ngược lại. Chu kỳ được chia làm hai loại chu kỳ đều và chu kỳ không đều. Thường chim cút đẻ tốt thì chu kỳ đều và kéo dài.
Với đà điểu, con mái thường đẻ trứng theo chu kỳ (12 - 26 quả). Trứng đà điểu hình thành trong khoảng 44 - 48 giờ. Hàng năm, 1 con mái đẻ từ 2 - 6 chu kỳ. Sau mỗi chu kỳ, chúng nghỉ một số ngày (ở Australia là 9,4 ngày). Con mái đẻ trứng hầu hết vào buổi chiều - từ 16.00 - 18.00 giờ.
b. Những yếu tố ảnh hưởng đến sức đẻ trứng
Sức đẻ trứng của chim chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau: di truyền cá thể, tuổi chim, giống, dòng chim, chế độ dinh dưỡng và điều kiện ngoại cảnh.
- Các yếu tố di truyền cá thể
Có 5 yếu tố di truyền ảnh hưởng đến sức đẻ trứng của chim là tuổi thành thục sinh dục, cường độ đẻ trứng, tính nghỉ đẻ, thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học và tính ấp bóng.
Tuổi thành thục sinh dục
Tuổi thành thục sinh dục liên quan đến sức đẻ trứng của chim. Thành thục sớm là một tính trạng mong muốn. Tuy nhiên cần phải chú ý đến khối lượng cơ thể. Tuổi bắt đầu đẻ và kích thước cơ thể có tương quan nghịch. Chọn lọc theo hướng tăng khối lượng quả trứng sẽ làm tăng khối lượng cơ thể chim và tăng tuổi thành thục sinh dục. Tuổi thành thục sinh dục của cá thể được xác định qua tuổi đẻ quả trứng đầu tiên. Tuổi thành thục sinh dục của một nhóm hoặc một đàn chim được xác định theo tuổi đạt tỷ lệ đẻ trứng là 5%. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tuổi thành thục sinh dục: loài, giống, dòng, hướng sản xuất, mùa vụ nở, thời gian chiếu sáng, chế độ dinh dưỡng, chăm sóc quản lý¼
Tuổi thành thục của bồ câu Pháp là 5-6 tháng, bồ câu nội là 6-8 tháng tuổi.
Cường độ đẻ trứng
Cường độ đẻ trứng là sức đẻ trứng của chim trong một thời gian ngắn. Cường độ đẻ trứng tương quan rất chặt chẽ với sức đẻ trứng một năm. Nhất là cường độ đẻ trứng của 3 - 4 tháng đẻ đầu tiên. Vì vậy, để đánh giá sức đẻ trứng của chim cút, người ta thường kiểm tra cường độ đẻ trứng của 3 - 4 tháng đẻ đầu để có những phán đoán sớm trong công tác chọn giống.
Tính ấp bóng
Tính ấp bóng chính là bản năng ấp trứng tự nhiên, đây là phản xạ không điều kiện nhằm duy trì nòi giống, liên quan đến sức đẻ trứng của chim. Tính ấp có ảnh hưởng đến năng suất trứng, vì khi ấp thì chim nghỉ đẻ. Chọn lọc để loại bỏ bản năng đòi ấp sẽ nâng cao sức đẻ trứng. Hiện nay người ta đã tạo được những đàn chim cút không còn bản năng đòi ấp.
Tính ấp bóng của bồ câu lại cực kỳ quan trọng, vì bồ câu mẹ phải ấp trứng, nuôi con bằng "sữa" nên không thể loại bỏ đặc tính sinh học này của chúng.
Di truyền
Các giống chim cút khác nhau có khả năng đẻ trứng cũng khác nhau. Ví dụ, sản lượng trứng trung bình của chim cút Nhật Bản là 300 - 360 trứng, chim cút Mỹ là 240 - 260 trứng/năm.
- Tuổi chim
Tuổi chim cũng có liên quan đến sản lượng trứng, ở chin cút, sản lượng trứng năm thứ hai giảm 15 -20% nên người ta chỉ nuôi đẻ 1 năm. Bồ câu đẻ theo lứa và tương đối ổn định trong 4-5 năm đầu, sau đó thì bắt đầu giảm xuống.
Căn cứ vào năng suất trứng qua các năm, người ta sử dụng chim cút mái 1 năm; bồ câu 5 năm
- Thức ăn và dinh dưỡng
Nếu khẩu phần không đảm bảo nhu cầu về protein, năng suất trứng và khối lượng trứng sẽ giảm. Khẩu phần không đảm bảo nhu cầu về vitamin và khoáng không những làm giảm năng suất trứng mà còn ảnh hưởng rõ rệt đến kết quả ấp nở. Tỷ lệ trứng không có phôi sẽ tăng cao hơn. Khẩu phần thừa năng lượng làm cho chim tĩch luỹ nhiều mỡ trong cơ thể cũng ảnh hưởng tới quá trình tạo trứng thông qua hoạt động của các hocmon sinh dục không bình thường.
Thức ăn chất lượng kém sẽ không thể cho năng suất cao, thậm chí còn gây bệnh cho chim. Các loại thức ăn bảo quản không tốt bị nhiễm nấm mốc, các loại thức ăn bị nhiễm độc các kim loại nặng, thuốc bảo vệ thực vật v.v... Bảo quản thức ăn không tốt cũng sẽ không phát huy được tác dụng trong chăn nuôi chim.
- Điều kiện ngoại cảnh
Các điều kiện ngoại cảnh như thời tiết, khí hậu: nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng¼ của chuồng nuôi đều ảnh hưởng đến sức đẻ trứng của gia cầm. Trong các yếu tố này thì nhiệt độ là yếu tố quan trọng nhất. Nhiệt độ thấp quá hay cao quá đều không có lợi cho chim và làm giảm sức đẻ trứng.
Khi nhiệt độ dưới 20oC, chim bắt đầu phải huy động thêm năng lượng để duy trì thân nhiệt của cơ thể, hiệu quả sử dụng thức ăn giảm xuống, tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng sẽ cao hơn ở 20oC. Ngược lại khi nhiệt độ cao hơn 20oC, chim cần thải nhiệt, lượng thức ăn thu nhận có xu hướng giảm. Tác động bất lợi đến năng suất trứng rõ rệt hơn khi nhiệt độ chuồng nuôi vượt quá 24oC, để giúp cho quá trình thải nhiệt, chim phải tăng cường độ hô hấp, dẫn đến mất nhiều CO2, đã làm kiềm hóa máu, quá trình trao đổi chất của chim không bình thường, ảnh hưởng đến sức khoẻ và khả năng sinh sản. Nhiệt độ môi trường cao không những làm giảm năng suất trứng mà còn giảm chất lượng trứng: vỏ trứng mỏng hơn bình thường, nhiều trứng đẻ ra không có vỏ đá vôi.
Nếu không khí trong chuồng nuôi bão hoà hơi nước sẽ gây hại cho cơ thể. Muốn đẩy lượng hơi nước thừa ra bên ngoài cần có hệ thống thông khí. Độ ẩm của không khí trong chuồng nuôi tốt nhất là 65 - 70%, về mùa đông, độ ẩm không nên vượt quá 80%. Sự thông thoáng tốt không chỉ giúp đảm bảo độ ẩm thích hợp trong chuồng nuôi mà còn đẩy các khí độc ra ngoài, đảm bảo một môi trường sống phù hợp với chim.
Ngoài nhiệt độ và độ ẩm thì chế độ chiếu sáng (thời gian và cường độ) có ảnh hưởng rõ rệt đến sức đẻ trứng của chim. Trong thời kỳ hậu bị, cần hạn chế thời gian chiếu sáng để chim không bị thành thục quá sớm. Đối với chim đẻ trứng, cần chiếu sáng từ 14 - 17 giờ/ngày; nếu thời gian chiếu sáng tự nhiên không đủ, phải chiếu thêm vào buổi tối (đối với dà điểu và chim cút).
Sức khoẻ
Tình trạng sức khoẻ chung của cả đàn có ảnh hưởng tới sản lượng trứng. Chim mắc bệnh truyền nhiễm và nhiều loại ký sinh trùng sẽ làm giảm số lượng cũng như chất lượng trứng. Nếu ống dẫn trứng không bình thường thì ở những con đà điểu cái có thể xuất hiện hiện tượng rụng trứng vào xoang bụng. Tinh dịch không thể vào để thụ tinh được. Những con cái bị bệnh này thường hay xệ bụng và được gọi là loại đà điểu "đẻ bên trong".
Sa dạ con (hay âm đạo) thường xảy ra với những con cái chưa trưởng thành trong mùa sinh sản đầu tiên. Thêm vào đó, một số con cái có thể trở nên bị "táo bón trứng", là hiện tượng chúng đẻ được hoặc đẻ ra trứng chưa hoàn chỉnh. Người ta không thể sờ được trứng trong bụng dưới, trường hợp này, cần phải siêu âm hoặc chụp tia x quang để chẩn đoán chính xác.
Các yếu tố về tâm lý
Tâm trạng căng thẳng cũng có thể ảnh hưởng tới sản lượng đẻ trứng của đà điểu. Những con đang trong thời kỳ sinh sản phải được đưa vào các bãi sinh sản riêng của chúng ít nhất là 30 ngày trước khi bắt đầu đẻ trứng. Thời gian này sẽ vô cùng quan trọng để cho chúng ổn định cuộc sống và làm quen với môi trường xung quanh trước khi bắt đầu sinh sản. Di chuyển đà điểu trong mùa sinh sản chắc chắn sẽ làm giảm sản lượng trứng của chúng cho tới khi chúng quen với bãi quây mới.
Thường xuyên thu gom trứng là một việc rất quan trọng để chúng tiếp tục đẻ trứng. Nếu không thường xuyên thu gom trứng sẽ làm cho chúng ngừng đẻ hoàn toàn trong một thời gian dài. Khi thu gom trứng nên cẩn thận tránh làm bẩn và dập trứng.
Nếu nuôi theo đàn (ở những bãi nhốt có từ hai con đực trở lên) thì vị trí đặt các thùng hoặc máng đựng nước và thức ăn và nước uống phải được đặt ở những chỗ thích hợp trên khắp cả bãi.
Chuồng chim cút đẻ cần yên tĩnh, không có tác động mạnh về âm thanh, ánh sáng hay người lạ....
3.2. SỨC SINH SẢN
Sức sinh sản của chim là số trứng đẻ ra, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ ấp nở. Chỉ tiêu tổng hợp quan trọng nhất để đánh giá sức sinh sản là số chim con loại I được sinh ra từ một chim mái trong một năm.
Trong chăn nuôi chim cút đẻ trứng thương phẩm, để giảm giá thành sản xuất, người ta không ghép chim trống trong đàn. Đối với các đàn chim này, người ta chỉ quan tâm đến khả năng đẻ trứng mà không quan tâm đến các chỉ tiêu ấp nở. Chính vì vậy, người ta thường chia ra sức sản xuất trứng và sức sinh sản. Mặc dù hai vấn đề này có liên quan chặt chẽ với nhau khi nuôi các đàn chim giống.
Đối với đàn chim giống, bên cạnh chỉ tiêu năng suất trứng, người ta đặc biệt quan tâm đến các chỉ tiêu: tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ ấp nở và tỷ lệ nuôi sống.
3.2.1. Tỷ lệ thụ tinh
- Công thức tính tỷ lệ thụ tinh
Tỷ lệ thụ tinh là tỷ lệ phần trăm giữa số trứng có phôi và số trứng đẻ ra hay số trứng đem ấp. Sử dụng cách tính nào là tuỳ thuộc vào mục đích của mỗi cơ sở chăn nuôi. Có thể sử dụng công thức (5) và công thức (6) để tính tỷ lệ thụ tinh.
                             Số trứng có phôi
Tỷ lệ thụ tinh =      -------------------   100       (5)
                               Số trứng đẻ ra
                              Số trứng có phôi
Tỷ lệ thụ tinh =        -------------------     100   (6)
                              Số trứng đem ấp
Công thức (5) dùng trong các cơ sở giống gốc để đánh giá chất lượng đàn giống.
Công thức (6) thường hay được dùng trong thực tế sản xuất.
- Những yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ tinh
+ Yếu tố di truyền
Loài, giống và các cá thể khác nhau thì tỷ lệ thụ tinh cũng khác nhau. Kỹ thuật nhân giống cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ tinh. Nếu cho giao phối đồng huyết sẽ làm giảm tỷ lệ thụ tinh.
+ Yếu tố dinh dưỡng
Dinh dưỡng của đàn bố mẹ có ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ thụ tinh. Nếu trong khẩu phần ăn không đủ các chất dinh dưỡng cần thiết sẽ làm giảm tỷ lệ thụ tinh. Nếu khẩu phần thiếu protein, phẩm chất tinh dịch sẽ kém vì đây là nguyên liêu cơ bản để hình thành tinh trùng. Nếu thiếu các vitamin, đặc biệt là vitamin A, E sẽ làm cho cơ quan sinh dục phát triển không bình thường, ảnh hưởng xấu đến năng sinh tinh và các hoạt động sinh dục, làm giảm tỷ lệ thụ tinh.
Khẩu phần cần phải cân bằng các chất dinh dưỡng, nhất là cân bằng giữa năng lượng và protein, cân bằng giữa các axit amin, cân bằng giữa các nhóm chất dinh dưỡng khác nhau.
+ Điều kiện ngoại cảnh
Điều kiện ngoại cảnh mà cụ thể là tiểu khí hậu chuồng nuôi (nhiệt độ, độ ẩm, sự thông thoáng và chế độ chiếu sáng) là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới tỷ lệ thụ tinh. Tỷ lệ thụ tinh của chim thường cao vào mùa xuân và mùa thu, giảm vào mùa hè, nhất là vào những ngày nắng nóng. Khi độ ẩm chuồng nuôi quá cao, thường làm lớp độn chuồng ẩm ướt, chim trống rất dễ mắc bệnh ở chân, làm tỷ lệ thụ tinh giảm thấp. Mặt khác, độ ẩm cao sẽ làm chim dễ mắc các bệnh đường ruột. Chuồng thông thoáng kém, hàm lượng khí độc trong chuồng nuôi tăng lên, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ và làm giảm tỷ lệ thụ tinh.
+ Tuổi
Tuổi chim có ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ thụ tinh. Mỗi loài có một tuổi đẻ "sung sức" khác nhau.
+ Tỷ lệ giữa con trống và con mái. Để có tỷ lệ thụ tinh cao, cần có tỷ lệ trống/mái thích hợp, bồ câu: 1/1; chim cút:1/2- 2,5
3.2.2. Tỷ lệ nở
- Khái niệm và công thức tính tỷ lệ nở
Tỷ lệ nở là tỷ lệ phần trăm giữa số chim nở ra và số trứng đẻ ra (hay số trứng đem ấp hoặc số trứng có phôi). Có thể sử dụng công thức (7), công thức (8), công thức (9) và công thức (10) để tính tỷ lệ nở.
                               
                                   Số con nở ra
Tỷ lệ nở   =      -------------------  100         (7)
                        Số trứng đẻ ra

                               Số con nở ra
Tỷ lệ nở    =        -------------------   100     (8)
                              Số trứng đem ấp
                                   Số con nở ra
Tỷ lệ nở    =         -------------------   100   (9)
                              Số trứng có phôi
                    
                            Số gia cầm con loại 1
Tỷ lệ nở   =          ----------------------      100  (10)
                                Số trứng đem ấp
Sử dụng cách tính nào là tuỳ thuộc vào mục đích của mỗi cơ sở chăn nuôi. Công thức (7) dùng trong các cơ sở giống để đánh giá chất lượng đàn giống. Công thức (8) thường hay được dùng trong thực tế sản xuất. Công thức (9) thường dùng khi đánh giá chất lượng của máy ấp, qui trình ấp khác nhau. Công thức (10) thường dùng để đánh giá hiệu quả chăn nuôi.
Những yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ ấp nở
Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ ấp nở có thể chia thành hai nhóm chính: môi trường bên trong và môi trường bên ngoài.
+ Ảnh hưởng của môi trường bên trong
Môi trường bên trong chính là tất cả các yếu tố liên quan đến chất lượng trứng ấp, bao gồm tất cả các chỉ tiêu đánh giá chất lượng trứng ấp như khối lượng trứng, chỉ số hình thái trứng, chất lượng vỏ trứng, tỷ lệ lòng trắng và lòng đỏ, chỉ số lòng đỏ, chỉ số lòng trắng và đơn vị Haugh.
+ Ảnh hưởng của môi trường bên ngoài
Môi trường bên ngoài bao gồm toàn bộ các khâu kỹ thuật thuộc qui trình ấp trứng (thu và bảo quản trứng ấp; khử trùng trứng ấp; kỹ thuật xếp trứng vào máy ấp; nhiệt độ, độ ẩm, sự trao đổi khí, đảo trứng và làm mát trong quá trình ấp) và chất lượng đàn bố mẹ.
3.2.3. Tỷ lệ nuôi sống
Khái niệm và công thức tính tỷ lệ nuôi sống
Tỷ lệ nuôi sống là tỷ lệ phần trăm giữa số con sống đến cuối kỳ và số con đầu kỳ. Có thể sử dụng công thức (11) để tính tỷ lệ nuôi sống.
                                      Số con sống đến cuối kỳ
Tỷ lệ nuôi sống  =       -------------------------           100 (11)
                                        Số con đầu kỳ
- Một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nuôi sống
Tỷ lệ nuôi sống của chim chịu ảnh hưởng của các yếu tố di truyền và ngoại cảnh.
+ Yếu tố di truyền
Yếu tố dị truyền bao gồm kiểu di truyền và phương pháp nhân giống
Mỗi giống, dòng, hay cá thể chim đều được thừa hưởng các kiểu gen di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác về sức sống và khả năng chống bệnh, chính vì vậy chúng sẽ có sức sống và khả năng chống bệnh khác nhau, dẫn đến tỷ lệ nuôi sống cũng khác nhau.
Giao phối đồng huyết sẽ dần làm giảm sinh lực và sức sống của đời con. Không những làm giảm khả năng sản xuất mà còn làm giảm sức sống và khả năng chống bệnh, tỷ lệ nuôi sống thấp.
Hệ số di truyền (h2) của tính trạng này tương đối thấp (0,10 - 0,33) nên chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện môi trường sống.
+ Yếu tố ngoại cảnh
Nhiệt độ cao hay thấp so với yêu cầu của con vật đều ảnh hưởng đến sức khoẻ của chúng. Trong điều kiện nhiệt độ thấp, chim phải huy động năng lượng để chống rét, duy trì thân nhiệt. Khi nhiệt độ môi trường xuống quá thấp, cơ thể không còn tự điều tiết được, thân nhiệt thay đổi làm rối loạn các hoạt động sinh lý bình thường của cơ thể. Đây là cơ hội tốt cho các bệnh phát sinh làm cho chim yếu ớt và có thể chết. Nhiệt độ thấp cực kỳ nguy hiểm đối với chim con. Ngược lại, nhiệt độ cao sẽ làm cho chim bị chết vì choáng nóng. Những giống, dòng, cá thể có năng suất càng cao thì khả năng chịu nóng càng kém hơn. Khí hậu nóng với độ ẩm cao sẽ làm khả năng thông thoáng của chuồng nuôi kém hơn. Thông thoáng chuồng nuôi không tốt sẽ làm tăng hàm lượng khí độc trong chuồng nuôi. Điều này sẽ làm tăng các bệnh tật khác nhau làm giảm sức sống của chim, tăng tỷ lệ chết.
Chăm sóc đàn chim không đúng qui trình kỹ thuật như mật độ nuôi quá cao, thời gian và cường độ chiếu sáng không hợp lý, chăm sóc lớp độn chuồng không tốt, máng ăn, máng uống không đầy đủ, không đảm bảo vệ sinh¼ đều làm giảm tỷ lệ nuôi sống của đàn chim.
Thực hiện nghiêm túc qui trình vệ sinh thú y như sát trùng chuồng trại và trang thiệt bị chăn nuôi; định kỳ phòng các bệnh truyền nhiễm sẽ giúp cho đàn chim luôn khoẻ mạnh. Tỷ lệ nuôi sống sẽ tăng cao.
3.3. SỨC SẢN XUẤT THỊT
Sức sản xuất thịt là đặc điểm kinh tế quan trọng của chim. Nó được biểu thị bằng khối lượng và chất lượng thịt ở tuổi giết thịt.
Mức độ và hiệu quả kinh tế của sức sản xuất thịt chim được đánh giá bằng tốc độ sinh trưởng của con non, tỷ lệ nuôi sống, hiệu quả sử dụng thức ăn và chi phí thức ăn cho 1 kg tăng trọng¼ nhưng chỉ tiêu tổng hợp cuối cùng mà người ta quan tâm là số lượng thịt được sản xuất ra từ một chim mái trong một năm.
Màu sắc thịt cũng là chỉ tiêu quan trọng, thịt các loài đà điểu, bồ câu, chim cút đều có màu đỏ.
Thành phần hóa học: thịt chim cũng như thịt các loại gia súc khác, thành phần hoá học bao gồm protein, hydratcacbon, lipit, vitamin, chất khoáng và nước. Nhìn chung, thịt chim có giá trị sinh học cao, biểu hiện bằng nồng độ dinh dưỡng cao, ngon miệng và khả năng đồng hoá tốt. Các loại chim khác nhau thì thành phần hoá học của thịt cũng khác nhau. Tính ngon miệng của thịt chim còn liên quan đến đặc điểm hình thái của tổ chức cơ (đường kính, cấu trúc sợi cơ¼) và tính chất lý học của nó (độ mềm và độ ướt). Đặc điểm này khác nhau ở các loài và các giống chim.
Thịt chim trung bình có 18% protein. Những sợi cơ của chim rất mỏng, các tổ chức liên kết giữa chúng nhỏ hơn các loại gia súc khác... làm cho thịt chim mềm hơn. Đường kính sợi cơ của con đực lớn hơn ở con cái. Sự khác nhau này còn tăng dần theo tuổi của chim.
3.3.1. Những chỉ tiêu đánh giá sức sản xuất thịt
Khi chim còn sống
a. Khối lượng cơ thể
Khối lượng cơ thể là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá khả năng cho thịt của chim khi còn sống. Khối lượng cơ thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau và có ảnh hưởng đến hiệu quả chăn nuôi chim thương phẩm. Tuỳ loài, giống chim, trình độ chăn nuôi và thị hiếu của người tiêu dùng mà khối lượng và tuôỉ giết thịt sẽ khác nhau.
Bồ câu nên giết thịt lúc 4 tuần tuổi (khi ra ràng), khi khối lượng cơ thể khoảng 400-700g
b. Tiêu tốn và chi phí thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng
Nuôi chim thịt thương phẩm chỉ có hiệu quả cao khi tiêu tốn và chi phí thức ăn cho 1kg tăng trọng thấp nhất, cho giá thành thấp nhất.
h. Khả năng sinh sản của đàn mẹ
Chim bồ câuđẻ khoảng  14-16 trứng/mái/năm
d. Tỷ lệ nuôi sống của con non và đàn mẹ
Tỷ lệ nuôi sống là tỷ lệ phần trăm giữa số chim sống đến cuối kỳ/ số con đầu kỳ.
e. Chỉ số sản xuất (production number PN)
Đây là một chỉ tiêu tổng hợp, biểu thị mối quan hệ giữa khối lượng và tỷ lệ nuôi sống đến khi xuất chuồng với hiệu quả sử dụng thức ăn cùng thời gian nuôi. Chỉ số sản xuất được tính bằng công thức (4)
                  Khối lượng sống (g) . Tỷ lệ nuôi sống (%)
PN =         -------------------------------------------------------------               (4)
           10[Hiệu quả sử dụng thức ăn (kg) . Thời gian nuôi (ngày)]
Khi giết mổ (khảo sát thân thịt)
g. Tỷ lệ thịt móc hàm
Tỷ lệ thịt móc hàm là tỷ lệ phần trăm giữa khối lượng thịt móc hàm và khối lượng sống. Khối lượng móc hàm là khối lượng sau khi cắt tiết, vặt lông và bỏ toàn bộ nội tạng.
h.Tỷ lệ thân thịt (thịt xẻ)
Tỷ lệ thân thịt là tỷ lệ phần trăm giữa khối lượng thân thịt và khối lượng sống. Khối lượng thân thịt là khối lượng thịt móc hàm đã cắt đầu ở đoạn giữa xương chẩm và xương atlas; cắt chân ở giữa khớp khuỷu.
i.- Tỷ lệ thịt ngực (thịt ức, thịt lườn)
Tỷ lệ thịt ngực có thể tính bằng hai công thức. Tỷ lệ thịt ngực là tỷ lệ phần trăm giữa khối lượng thịt ngực trái nhân với hai /khối lượng sống hoặc khối lượng thân thịt.
j. Tỷ lệ thịt đùi
Tỷ lệ thịt đùi cũng được tính bằng hai công thức (như trên).
k.Tỷ lệ phần ăn được
Tỷ lệ phần ăn được là tỷ lệ phần trăm giữa khối lượng phần ăn được và khối lượng sống. Phần ăn được bao gồm da, cơ, mỡ và nội tạng ăn được (ở đà điểu bỏ da). Nội tạng ăn được bao gồm tim, gan đã bỏ túi mật, dạ dày cơ đã bỏ màng sừng và chất chứa bên trong.
3.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến sức sản xuất thịt
a. Loài, giống, và giới tính
Thông thường như một quy luật, con trống thường nặng hơn con mái. Ngay trong cùng một loài, sự khác biệt về khối lượng giữa các giống cũng rất lớn.
Ngoài ra người ta còn nhận thấy khối lượng của chim còn khác nhau theo tuổi và theo cá thể. Khối lượng chim thường tăng dần suốt năm đầu.
b. Tốc độ sinh trưởng
Để đánh giá sức sinh trưởng của gia cầm người ta thường dùng các chỉ tiêu như sinh trưởng tích luỹ, sinh trưởng tuyệt đối và sinh trưởng tương đối.
Tốc độ sinh trưởng của chim phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như loài, giống, giới tính, đặc điểm di truyền của mỗi cá thể, chế độ dinh dưỡng và điều kiện nuôi dưỡng chăm sóc v.v...
c. Sự phát triển của cơ lườn (cơ ngực)
Để đánh giá sự phát triển của cơ lườn, người ta thường dùng chỉ số "độ lớn góc ngực". Giữa độ lớn góc ngực, khối lượng cơ lườn và khối lượng sống của chim có mối liên quan chặt chẽ. Chim bồ câu, chim cút có góc ngực rất lớn so với gia cầm khác. Chỉ tiêu này ở đà điểu không có ý nghĩa vì chúng là chim chạy, không có xương lưỡi hái và cơ ngực.
Cách xác định độ lớn góc ngực: cố định gia cầm, hai chân kéo thẳng, đầu chúc xuống phía dưới. Một tay cầm lưng, còn một tay cầm giác kế, hai đầu giác kế đặt vào ngực ở khoảng cách đầu trước xương lưỡi hái về phía đầu 1cm và đọc kết quả ghi trên giác kế.
Khi đo cần chú ý giác kế phải giữ vuông góc với xương lưỡi hái; giác kế khép chặt nhưng không ấn chặt vào xương lưỡi hái.
d. Chi phí thức ăn cho tăng khối lượng cơ thể
Thức ăn chiếm đến 70% trong tổng giá thành sản phẩm chăn nuôi. Chi phí thức ăn cho 1kg thịt càng thấp càng tốt. Chỉ tiêu này ở chim bồ câu là 6,0 - 7,0 kg/kg thịt. Chim cút là 4,5-5,5 kg.
e. Mức sinh sản và tỷ lệ nuôi sống
Mức sinh sản và tỷ lệ nuôi sống của chim có ảnh hưởng tới sức sản xuất thịt. Chỉ tiêu tổng hợp quan trọng nhất để đánh giá sức sản xuất thịt là số kg thịt sản xuất ra từ một chim giống trong một năm, vì vậy nó phụ thuộc vào sức sinh sản của đàn giống bố mẹ và tỷ lệ nuôi sống. Mỗi chim cút cho 250 con non/năm, nếu tính mỗi con nặng 120 g, sản lượng thịt/năm sẽ là 30 kg, bồ câu nuôi sống trung bình 13 con non/đôi bố mẹ, khối lượng chim lúc ra ràng là 500g, sản lượng thịt sẽ là 6,5 kg thịt/năm/đôi. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Góc thư giãn

Truyện vui sưu tầm: Làm ơn! Trước tiệm thuốc tây có một hàng dài người đang xếp hàng chờ đến lượt. Bỗng một chàng trai từ phía sau vừa c...