Thứ Hai, 14 tháng 10, 2013

CẨM NANG NUÔI CHIM BỒ CÂU - PHẦN 2: BỒ CÂU THỊT

CẨM  NANG NUÔI CHIM BỒ CÂU
PHẦN 2 - CÁC PHƯƠNG THỨC NUÔI CHIM BỒ CÂU THỊT
Chương 1: Nuôi Bồ câu công nghiệp
Là phương thức chăn nuôi hoàn toàn trong chuồng kín với tiểu khí hậu và thức ăn nhân tạo. Chim sống hoàn toàn cách ly với điều kiện tự nhiên.
Đây là phương thức chăn nuôi hiện đại, thường có quy mô lớn. Người ta xây nhà nuôi lớn, trong đó được chia ra thành 3 khu vực: nuôi chim bố mẹ (thành từng đôi); nuôi chim hậu bị (theo từng đàn hỗn hợp, cả trống và mái, khi nào chúng thành thục mới ghép đôi để cho sinh sản) và chăn nuôi chim thịt (vỗ béo chim ra ràng trước khi xuất bán). Có một đặc điểm nổi bật là chim bồ câu non khi mới nở còn rất yếu, chưa mở mắt¼ (do trứng bé, lòng đỏ có tỷ lệ thấp) nên chim bố mẹ phải thay nhau mớm "sữa" diều cho chúng. Khả năng này do hocmon prolactin quyđịnh (tương tự như ở động vật có vú), vì vậy, không như chăn nuôi gia cầm và các loài chim khác (đà điểu, chim cút¼ ), khi nuôi chim sinh sản, người ta phải nuôi từng đôi riêng biệt (theo từng gia đình) và phải để chim tự ấp thì chúng mới có "sữa" để nuôi con, do đó người ta không tiến hành ấp nhân tạo đối với trứng bồ câu.
Ưu điểm: dễ quản lý, chăm sóc, dễ phòng dịch, cho năng suất cao.
Nhược điểm: đầu tư ban đầu tốn kém.
I. Chuồng trại chăn nuôi bồ câu công nghiệp.
1.1. Nguyên tắc cơ bản về chuồng trại chăn nuôi bồ câu công nghiệp
1.1.1. Yêu cầu chung
+ Địa điểm xây dựng cần có địa hình tương đối bằng phẳng, dễ thoát nước, xa ao hồ, sông ngòi, thuộc vùng khí hậu tương đối điều hoà, lượng mưa thấp, nằm trong khu vực đất kém giá trị về trồng trọt. Gần đường giao thông lớn để có thể vận chuyển thức ăn và tiêu thụ sản phẩm. Không quá gần chợ, các khu dân cư cũng như các cơ sở chăn nuôi khác. Cách xa những nơi ồn ào, nhiều tiếng động như nhà máy, đường xe lửa¼
Đặc biệt là chuồng phải yên tĩnh. Các đối tượng chăn nuôi: đà điểu, bồ câu và chim cút đặc biệt cần yên tĩnh. Do còn bản năng hoang dã, chúng rất sợ tiếng động mạnh. Khi có tiếng động mạnh, chúng thường bị kích động, bay chạy loạn xạ, nhiều con bị vỡ đầu, gãy cổ¼ gây tác hại nghiêm trọng. Có nguồn nước sạch dồi dào, nguồn điện đảm bảo ổn định thường xuyên. Có khả năng mở rộng diện tích khi tăng quy mô.
+ Chuồng trại phải phù hợp với đặc điểm sinh lý của chim nuôi, đảm bảo cho chúng có tốc độ sinh trưởng nhanh, khả năng cho sản phẩm cao.
+ Thuận lợi cho các thao tác kỹ thuật hàng ngày của công nhân và cán bộ kỹ thuật, giảm nhẹ sức lao động.
+ Cho phép áp dụng nhanh và có hiệu quả các biện pháp vệ sinh phòng dịch.
+ Giá trị sử dụng cao nhất.
1.1.2. Tiểu khí hậu chuồng nuôi
Thực chất công tác xây dựng chuồng trại là tạo ra tiểu khí hậu chuồng nuôi, tức là tạo ra nhiệt độ, độ ẩm và sự thông khí.. thích hợp. Nếu những thông số kỹ thuật này được đảm bảo, sẽ nâng cao sức khoẻ và sức sản xuất của chim. Chim không có tuyến mồ hôi, lại có bộ lông vũ bao phủ nên chim chỉ có thể hạ nhiệt bằng cách xoà cánh, uống thêm nước, vùi mình trong lớp độn chuồng ẩm, mát và dồn máu từ cơ quan nội tạng ra mạch máu ngoại vi, chim há mỏ ra để thở, làm tăng tần số hô hấp, thải một lượng lớn hơi nước và khí CO2, làm giảm lượng H2CO3 dẫn đến kiềm hoá máu, thay đổi độ pH và áp suất thẩm thấu. Những biến đổi này sẽ làm cho chim không thể thực hiện các chức năng sinh lý một cách bình thường.
Mặt khác, điều kiện nóng ẩm sẽ làm cho chim ăn kém, giảm hiệu quả sử dụng thức ăn, giảm tốc độ sinh trưởng và chất lượng thịt, giảm khả năng đẻ trứng và chất lượng trứng, giảm tỷ lệ ấp nở và tỷ lệ nuôi sống; giảm sức đề kháng và khả năng đáp ứng miễn dịch. Tăng hiện tượng mổ cắn nhau, tăng nhu cầu về diện tích chuồng nuôi, nhu cầu về không khí sạch và chi phí làm mát. Tất cả những vấn đề này sẽ làm giảm sức sản xuất và giảm hiệu quả chăn nuôi. Vì vậy, tạo ra tiểu khí hậu chuồng nuôi có nhiệt độ, độ ẩm, thông khí thích hợp là kỹ thuật cực kỳ quan trọng trong chăn nuôi.
Hình 1.1: Trại chăn nuôi bồ câu
1.2. YÊU CẦU KỸ THUẬT ĐỐI VỚI  NHÀ NUÔI CHIM CÔNG NGHIỆP.
1.2.1. Hướng nhà nuôi.
Sau nhiều năm chăn nuôi gia cầm công nghiệp, người ta đã rút ra kết luận:
Nếu chăn nuôi quảng canh, sử dụng hệ thống thông thoáng tự nhiên thì tốt nhất là xây chuồng theo hướng đông nam để hứng được nhiều gió mát trong mùa hè nóng bức, giảm chi phí làm mát.
Nếu nuôi trong chuồng kín, điều hòa tiểu khí hậu bằng hệ thống quạt gió và dàn lạnh, tấm làm mát thì tốt nhất là làm nhà có trục song song với hướng gió chính (gió đông nam) để khi dùng quạt đẩy khí từ chuồng ra, xuôi với chiều gió thổi, làm giảm chi phí quạt đẩy và không cản bụi.
1.2.2. Kích thước nhà nuôi chim
Kích thước nhà nuôi phụ thuộc vào đối tượng chăn nuôi, quy mô của trại cũng như dụng cụ, thiết bị chăn nuôi và mức độ cơ giới hoá. Thông thường các dãy chuồng nuôi chim theo phương thức công nghiệp có chiều dài 30-50m, chiều rộng 7 - 10m và chiều cao (không kể mái) là 2,5 - 3,0m. Với những vùng khí hậu nóng ẩm, sử dụng chuồng nuôi kiểu thông thoáng tự nhiên, không nên dùng kiểu chuồng quá rộng (trên 10m), vấn đề thông thoáng sẽ gặp nhiều khó khăn. Vấn đề này sẽ được trình bày kỹ trong từng chương chăn nuôi chim cụ thể ở các phần sau.
1.2.3. Những cấu kiện của nhà nuôi
a. Nền móng
Móng chuồng nuôi phải vững chắc, chịu được lực nén của toàn bộ phần trên và chống ẩm tốt. Nền phải chắc, có độ nhẵn để dễ làm vệ sinh, có độ nghiêng nhất định để không đọng nước.
b. Khung và tường
Khung nhà phải bền vững, chịu được gió mạnh, thường xây bằng gạch, bê tông hay kim loại. Nếu là tường chịu lực thì phải có các trụ để chịu các tải trọng của mái. Nếu là kết cấu nhà kiểu khung thì tường bao sẽ không chịu một trọng tải nào mà chỉ làm nhiệm vụ của một cấu kiện bao che. Khi tính toán tường bao che về phương diện vật lý cần chú ý đến tính cách nhiệt của tường.
c. Mái và trần
Nên làm bằng vật liệu tương đối nhẹ nhưng bền vững và cách nhiệt tốt. Độ dốc của mái khoảng 30o để dễ thoát nước mưa, các vật liệu thường được sử dụng làm mái là ngói đỏ, ngói xi măng, fibroximang, tôn¼ Mái nên có màu sáng để bức xạ nhiệt tốt hơn. Nếu có điều kiện thì nên làm chuồng 4 mái, 2 lớp mái trên và dưới cách nhau 40-50 cm, lồng vào nhau 1,2-1,5 m để tránh hắt nước mưa. Chuồng 4 mái thoát nhiệt rất tốt vào mùa hè.
Chuồng phải có trần để cách nhiệt. Giữa trần và đỉnh tường nên có khe thoát nhiệt ở phía trên trần để thường xuyên thoát khí nóng vào mùa hè. Vật liệu làm trần tốt nhất là các tấm xốp, những tấm bông thuỷ tinh ... có độ dầy thích hợp, nếu không có điều kiện thì làm bằng gỗ dán, cót, cót ép.
1.2.4. Khoảng cách giữa các nhà nuôi
Để giúp cho việc thông thoáng chuồng nuôi thuận lợi, khoảng cách giữa hai dãy chuồng hay còn gọi là khoảng cách giữa hai nhà nuôi gia cầm phải lớn hơn 2, 5 lần chiều rộng chuồng nuôi. Thường khoảng cách này tối thiểu từ 20 - 25m.
1.2.5. Một số công trình phụ quan trọng
a. Kho thức ăn
Ngoài những kho nhỏ bố trí ở từng chuồng nuôi để chứa thức ăn cùng dụng cụ chăn nuôi, thuốc thú y¼ toàn trại cần phải có một kho thức ăn chung. Sức chứa của kho được tính toán dựa trên những yếu tố sau:
- Hướng sản xuất, số lượng đầu con và mức thu nhận thức ăn của đàn chim
- Mỗi trại chim cần có lượng thức ăn dự trữ ít nhất là một tuần nuôi
- Cứ 2m3 kho có thể chứa được khoảng 1 tấn thức ăn hỗn hợp đã đóng bao.
Kho thức ăn thường có nền lát bằng xi măng để dễ quét dọn và phải có biện pháp chống được chuột và côn trùng. Trong kho, thức ăn không được đặt trực tiếp xuống nền mà phải được đặt trên các giá cao, cách mặt đất từ 25 - 30 cm và cách tường ít nhất 20cm (khi xếp thức ăn cần lưu ý xếp tuần tự một bao hàng dọc, một bao hàng ngang từ dưới lên trên và không nên xếp cao quá 1,7m tính từ nền kho).
II. THIẾT BỊ VÀ DỤNG CỤ CHĂN NUÔI CHIM
2.1. Hệ thống điện nước.
Để đảm bảo nguồn điện liên tục và chủ động, ngoài đường điện được nối với mạng điện công cộng, mỗi trại chim nên có trạm phát điện dự phòng riêng.
Nhà  nuôi có độ rộng dưới 8m, chỉ cần mắc một đường dây điện trung tâm chạy dọc suốt chiều dài chuồng nuôi với các ổ mắc bóng điện cách nhau 2,5 - 3m. Chuồng có độ rộng trên 8m nên mắc 2 đường điện chạy song song. Các ổ mắc bóng điện cách nhau 4 - 4, 5m. Độ cao của đèn cách mặt nền trung bình 2m.
Hệ thống cấp nước bao gồm giếng khoan, trạm bơm, tháp nước và mạng lưới ống dẫn nước về các bể chứa. Mạng lưới ống dẫn nước và các bể chứa cần được thiết kế để không bị ánh nắng mặt trời chiếu trực tiếp vào làm nước bị nóng. Trong các chuồng nuôi có chiều rộng dưới 8m chỉ cần đặt 1 đường ống chính giữa, dọc theo chuồng nuôi với các van mở cách nhau khoảng 6m. Không nên đặt ống nước trong chuồng nuôi chìm dưới nền để tiện vệc sửa chữa. Các đường ống dẫn nước bên ngoài chuồng nuôi cần đặt chìm sâu dưới đất, để đảm bảo nước không bị nóng khi trời nắng.
2.2. Hệ thống thông khí và làm mát
Để thiết kế hệ thống thông khí và làm mát, khi xây dựng chuồng nuôi phải tính toán sự cân bằng nhiệt và thông khí. Sự thông khí tự nhiên (các lỗ thông hơi bố trí thêm trên tường và các lỗ thông kéo dài trên mái) có nhiều hạn chế. Biện pháp thông khí tuần hoàn tự nhiên không thể khống chế được sự thông khí đảm bảo theo yêu cầu. Nhất là vào mùa hè, khi chênh lệch nhiệt độ không khí bên trong và bên ngoài chuồng nuôi không lớn.
Trong các cơ sở chăn nuôi hiện đại, người ta sử dụng các hệ thống thông khí tích cực để tạo một tiểu khí hậu theo yêu cầu, đó là hệ thống quạt hút, kết hợp với hệ thống phun sương, hệ thống tấm làm mát, trần cách nhiệt¼
2.3. Thiết bị sưởi
Thiết bị sưởi dùng để cung cấp nhiệt để đảm bảo nhiệt độ thích hợp trong chuồng nuôi. Cấu trúc chung của thiết bị sưởi gồm bộ phận phát nhiệt và một chụp hình nón có đường kính từ 80 - 130cm (vì thế còn gọi là chụp sưởi). Bộ phận phát nhiệt có thể bằng điện, tia hồng ngoại, khí đốt, dầu, than... Hiện nay trong các trang trại lớn người ta thường dùng các chụp sưởi bằng điện hoặc bằng gas. Khi sử dụng các thiết bị sưởi cần căn cứ vào công suất của nguồn nhiệt và số chim nuôi mà bố trí cho thích hợp.
2.4. Hệ thống rèm che
Rèm che dùng trong chuồng thông thoáng tự nhiên, để che chắn phía bên ngoài chuồng nuôi, phần không xây tường mà chỉ được ngăn bằng lưới thép, rèm che góp phần giữ nhiệt bảo vệ đàn chim khi có những thay đổi về thời tiết như gió mùa, bão, mưa lớn, được làm bằng các nguyên liệu khác nhau như bạt, vải nhựa, bạt nilon, bao tải, cót ép.
2.5. Hệ thống chuồng nuôi, ổ đẻ.
Mỗi loài chim cần có hệ thống lồng đặc trưng, phù hợp với kích thước cơ thể, đặc tính sinh lý của mỗi loài, do đó, sẽ được trình bày trong từng chương, nuôi từng loại chim cụ thể.
Chuồng nuôi phải có ánh nắng mặt trời, khô ráo, thoáng mát, sạch sẽ, yên tĩnh, tránh được gió lùa, mưa hắt. Cần hết sức lưu ý các động vật ăn thịt: mèo, chuột, tắc kè¼ vì chúng rất thích ăn thịt chim, trứng chim bồ câu và gây nên những tổn thất to lớn cho người chăn nuôi. Chuồng cần có độ cao vừa phải để người chăn nuôi tiện quan sát và chăm sóc cho chim. Đặc biệt, chuồng nuôi chim ấp trứng và chim con càng cần được yên tĩnh.
Chuồng nuôi được chia làm 2 loại: chuồng nuôi cá thể và quần thể.
2.5.1.Chuồng nuôi cá thể: dùng nuôi các cặp chim sinh sản từ 6 tháng tuổi trở đi. Mỗi cặp chim sinh sản cần 1 ô chuồng riêng, kích thước của 1 ô chuồng (căn hộ chim): cao x sâu x rộng = 50cm x 50 cm x 50 cm.
Hiện nay trên thị trường thường sản xuất loại chuồng đôi 50x50x100(cm) băng lan sắt 2 ly mạ kẽm nuôi được 2 đôi chim đẻ. Trong chăn nuôi công nghiệp, người ta xếp chống  2 - 3 tầng chuồng lên nhau, hoặc cũng có thể đóng bằng gỗ hoặc tre để giảm chi phí.
Hình 2.1: Chuồng nuôi công nghiệp.
Trong mỗi một ô chuồng được đặt các ổ đẻ, máng ăn, máng uống, máng đựng thức ăn bổ sung cho 1 đôi chim sinh sản.
2.5.2.Chuồng nuôi quần thể dùng để nuôi chim hậu bị sinh sản từ 2 - 6 tháng tuổi.
Kích thước của 1 nhà chim: dài x rộng x cao (cả mái) = 6m x 3,5m x 5,5m.
Trong nhà chim này, người ta bố trí nhiều dãy lồng tầng để nuôi các loại chim với các máng ăn, máng uống, ổ đẻ, máng đựng thức ăn bổ sung được thiết kế riêng cho từng đối tượng chim. Khi chim chuẩn bị sinh sản thì người ta gép từng đôi với nhau vào chuồng cá thể.
Đối với chuồng nuôi chim bồ câu có quy mô lớn theo kiểu công nghiệp hoặc bán công nghiệp thì ngoài những tiêu chuẩn kỹ thuật chung cho các loại chuồng, còn có nhiều yêu cầu phức tạp hơn như:
- Sắp đặt các dãy chuồng hợp lý để dễ dàng thao tác kỹ thuật, tiện lợi và thuận tiện theo dây chuyền chăn nuôi, đồng thời giảm bớt lao động.
- Có chuồng nuôi cách ly chim ốm.
- Do mỗi dãy chuồng chứa nhiều chim nên nhiệt độ bên trong thường tăng cao; mật độ khí thải tăng từ phân và nước tiểu chim, gây bất lợi cho sức khoẻ chim bồ câu. Cần tạo ra một "tiểu khí hậu" mát, thoáng trong chuồng bằng cách lưu thông khí tốt trong chuồng nuôi.
2.5.3. Ổ đẻ.
Ổ đẻ có đường kính: 20 - 25 cm; chiều cao: 7 - 8 cm, phía trong lót rơm sạch và êm.
Thông thường, ở các chuồng nuôi công nghiệp bán sẵn đã có sẵn ổ đẻ cho chim.
2.5.3. Máng ăn.
Máng ăn để cung cấp thức ăn cho chim hàng ngày, nên đặt ở những vị trí tránh chim thải phân vào, tránh các nguồn gây ẩm ướt và đặc biệt hạn chế thức ăn rơi vãi. Kích thước: dài x rộng x sâu = 15cm x 5 cm x 5cm- 10cm
2.5.4. Máng uống.
Máng uống phải đảm bảo tiện lợi và vệ sinh.
Có 2 loại máng uống là loại hình số 8 và máng uống tự động hoặc có thể tận dụng các loại vỏ chai nhựa để làm máng uống cho chim.
Hình 2.2: Máng uống số 8
Hình 2.3: Máng uống tự dộng.
2.5.5. Máng đựng thức ăn bổ sung .
 Do nuôi nhốt công nghiệp nên cần bổ sung chất khoáng, sỏi, muối ăn. Kích thước của máng đựng thức ăn bổ sung như máng uống, nên dùng gỗ hay chất dẻo, không dùng kim loại.
III. KỸ THUẬT NUÔI CHIM BỒ CÂU CÔNG NGHIỆP.
3.1. CÁC GIỐNG BỒ CÂU
3.1.1. Bồ câu nội (bồ câu ta)
Bồ câu ta có nhiều loại hình khác nhau: nuôi để lấy thịt, đưa thư hoặc để thi bay (Bồ câu hội). Trong phần này tôi chỉ đề cập đến chim bồ câu nôi lấy thịt.
Chim bồ câu nhà có tổ tiên loài chim bồ câu núi màu lam, hiện vẫn còn sống hoang dã ở nhiều trên thế giới. Bồ câu lấy thịt ở nước ta có nhiều màu sắc khác nhau, từ trắng tuyền đến khoang, xám và đen. Loại có màu trắng to hơn loại đen.
Bồ câu ta có tốc độ lớn tương đối nhanh, các cơ bắp phát triển tốt và chóng thành thục, tầm vóc nhỏ, khối lượng cơ thể trung bình 300-400g, chim trống thường to hơn chim mái một chút.
Không nên chọn giống chim có lông ở chân ( vì chúng chậm chạp, dính phân vào lông làm bẩn trứng, chân quá to, vụng về).
Khả năng sinh sản.
Bồ câu ta thường bắt đầu giao phối vào đầu mùa xuân, từ tháng 2, sau đó đẻ đến tận tháng 10, mỗi năm chim đẻ khoảng 5-6 lứa. Khoảng cách thời gian giữa các lứa tăng dần về cuối vụ. Mỗi lứa chim thường đẻ 2 trứng, cách nhau khoảng 36 giờ và ấp nở ra 2 con, một trống và một mái, cũng có khi nở ra cả hai trống hoặc hai mái. Khoảng cách 2 lứa đẻ bình quân 40-50 ngày. Ở miền Bắc, chim chỉ đẻ 5 - 6 lứa, nhưng ở miền Nam, chim có thể đẻ đến 6-7 lứa do không có mùa đông.
Người ta thường cho bồ câu phối giống đồng huyết, ghép đôi ngay chính anh chị em của chúng nhưng tác hại không nhiều.
Nuôi công nghiệp, người nuôi có thể chủ động ghép đôi cho chúng để tránh đồng huyết. Việc chủ động ghép đôi có thể thành công đến 90%.
Bồ câu còn non rất khó phân biệt trống mái. Khi chim lớn thì phân biệt được dễ dàng hơn. Chim trống thường lớn hơn chim mái, mình đẫy đà, đầu to và chân cũng to hơn con mái. Chim trống hay gù và thích đùa giỡn với con mái. Chim bồ câu thường đi đôi ngay cả khi bay đi kiếm mồi hay về chuồng. Khi ấp trứng, một con ấp còn một con bay đi kiếm mồi. Trứng bồ câu có vỏ màu sáng trắng, khối lượng trứng trung bình 16-18g. Sau khi đẻ hai trứng chim sẽ đòi ấp, cũng có trường hợp mới đẻ một trứng chim đã nằm ấp. Trong trường hợp này, chim con nở ra không đồng thời, có thể chênh lệch 1 đến 2 ngày. Khi ấp lứa đầu tiên chim bố mẹ còn vụng, nhưng từ lứa thứ hai trở đi, chúng ấp tốt và tỉ lệ nở cao hơn. Sau khi ấp 17 ngày thì trứng nở.
Bồ câu thay lông dần từng bộ phận. Lông cánh sơ cấp thay lần lượt từ trong ra ngoài, lông cánh thứ cấp thay hai lông phía ngoài và thay dần vào giữa. Khi thay lông cánh, bồ câu vẫn bay bình thường vì chúng thay lần lượt. Lông đầu và cổ thay nhanh rồi đến lông mình và lông hai bên sườn. Bồ câu mái và trống đều thay lông như nhau. Bồ câu non một tháng tuổi bắt đầu thay lông, do đó những con nở sớm sẽ kịp thay lông vào trước mùa rét.
Khả năng sinh trưởng của bồ câu mới nở.
Chim bồ câu mới nở chưa mở mắt, ít lông và không có khả năng tự mổ thức ăn như gà, vịt. Chim trống và mái thay nhau mớm mồi cho chim non. Hai tuần lễ đầu tiên, chim non lớn rất nhanh. Sau một tháng chim đã mọc lông hoàn chỉnh, chim dần dần tập bay, có thể bán thịt khi chim 25-30 ngày tuổi.
3.1.2. Bồ câu Pháp
Tháng 9/1996, Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương đã nhập nội dòng chim bồ câu Pháp, gọi tắt là VN1. Đến tháng 5/1998 lại tiếp nhận tiếp hai dòng nữa là Titan và Mimas để khảo sát và nhân giống.
Dòng VN1
Đây là dòng chim có màu lông đa dạng, ngoại hình thấp, béo, ức nở, vai rộng, chân bóng màu đỏ và không có lông chân, lông vũ dầy, thể hiện là dòng bồ câu hướng thịt. Đàn chim được ghép đôi nhân tạo ở thế hệ thứ 2; kết quả ghép thành công đến 97%. Ghép nhân tạo có thể tránh được đồng huyết và tạo ra đời con đồng nhất về màu lông.
Chim trống và mái đều thay nhau ấp trứng. Bình thường chim mái đẻ 2 trứng, quả đầu đẻ vào buổi chiều hoặc chập tối, đến đầu giờ chiều ngày thứ ba đẻ tiếp quả thứ 2, hai quả cách nhau từ 36-48 giờ. Sau khi đẻ xong hai quả chim mới ấp, nhưng cũng có một số đôi đẻ một trứng đã ấp. Chim mái và trống thay nhau ấp, chim mái ấp buổi sáng và đêm, chim trống ấp buổi chiều. Khi chim non nở ra, vào những ngày đầu chim mẹ mớm cho con chất dịch trắng, sau đó chim bố mẹ thay nhau mớm thức ăn từ diều lên, sau ba tuần chim non có thể tự mổ ăn được.
Khả năng sinh trưởng. Chim non mới nở nặng 15g, đến 28 ngày tuổi nặng khoảng
566g, đến 6 tháng tuổi nặng 631g (con trống) và 602g (con mái). Đến tuổi trưởng thành, chim trống nặng 682g, chim mái nặng 611g. Một chu kỳ sinh sản bao gồm 2 ngày đẻ trứng, 17 ngày ấp, 28 ngày nuôi con, tổng là 47 ngày. Tuy nhiên, các chu kỳ chồng chéo nhau vì con mái thường đẻ sớm, khi con của nó mới được 10-18 ngày tuổi, do vậy khoảng cách trung bình giữa hai lứa đẻ là 38-40 ngày.
Đặc điểm về trứng. Đôi khi chim mái chỉ đẻ 1 trứng còn hầu hết chim mái đẻ hai trứng rồi ấp, như vậy tính cho cả đàn lớn, số quả đẻ trong một lứa bình quân là 1,96 quả. Trứng tương đối đồng đều, nặng bình quân là 21-22g, to hơn trứng của bồ câu ta. Tỉ lệ ấp nở bình quân là 78,8%, mùa đông tỷ lệ này cao hơn mùa hè khoảng 5%. Tỉ lệ nuôi sống chim non đến 28 ngày tuổi là 95%, số chim non do một đôi sản xuất ra là 13 con/năm. Mỗi đôi có thể đẻ 9 lứa/năm với 17-18 quả trứng, nhiều hơn chim nội (chỉ 12 quả).
Tiêu tốn thức ăn cho 1 cặp chim nuôi nhốt từ 4,68-4,88 kg/lứa đẻ; 43 kg thức ăn hỗn hợp/năm/đôi. Tỉ lệ loại thải của chim sinh sản hàng năm là 2%.
Thịt chim bồ câu ngon, ít mỡ, tỉ lệ thịt xẻ khoảng 74%. Tỉ lệ thịt đùi so với thịt xẻ khoảng 18%; thịt ngực là 38-40%. Tỉ lệ protein của thịt chim bồ câu VN1 là 18%.
Dòng Titan và dòng Mimas
Theo tài liệu của hãng Grimand Freres, dòng Titan là dòng nặng cân, lông màu lốm đốm, mỗi cặp cho trung bình 13-14 chim non một năm. Khối lượng cơ thể chim non nuôi đến 28 ngày tuổi nặng 700g. Chim dòng Mimas có màu trắng tuyền, mỗi đôi có thể cho 16-17 chim non một năm, khối lượng chim non 28 ngày tuổi nặng 590g. Khi vào đẻ, dòng Mimis con trống nặng 688g, con mái nặng 667g; dòng Titan, con trống nặng 718g, con mái nặng 679g.
Khối lượng trứng đầu của dòng Mimis là 25,00g, dòng Titan 25,05g. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ của dòng Mimis là 35 ngày, của dòng Titan là 40 ngày. Sau một tháng đẻ tỉ lệ đẻ của toàn đàn tới 80%. Tỉ lệ nuôi sống của hai dòng đều đạt được 98%.
Bảng 3.1.Tỉ lệ có phôi, ấp nở và khả năng nuôi con của chim mẹ 2 dòng Mimas và Titan
Chỉ tiêu                                                                Mimas            Titan
Tỉ lệ phôi (lứa đầu( (%)                                          70,01              69.24
Tỉ lệ nở /tổng trứng (%)                                           67,5                65.5
Tỉ lệ nuôi sống chim non đến 28 ngày tuổi( (%)       91,5                 92.1
Tỉ lệ sống của chim dò (1-6 tháng tuổi) (%)              93,18              95,02
Tiêu tốn thức ăn / 1 đôi chim bố mẹ dòng Mimas là 4,75 kg, dòng Titan là5,25 kg/lứa đẻ (kể cả nuôi con và không nuôi con).
Chi phí thức ăn / 1kg thịt hơi dòng Mimas là 5,14 kg, dòng Titan là 5,47 kg
3.1.3. Bồ câu lai.
Trên cơ sở các giống bồ câu nội, ngoại, các nhà khoa học Viện Chăn nuôi đã tiến hành nhiều công thức lai giữa trống nội với mái ngoại, trống ngoại với mái nội¼ đã cho nhiều kết quả khả quan. Nếu chi phí cho 1 lứa đẻ chim nội là 4,66 kg thì cho chim lai chỉ còn 4,0 kg.Chi phí thức ă/ 1 kg hơi của chim nội khoảng 8 kg, chim ngoại là 6,55 kg, chim lai chỉ là 6,1-7,6 kg.
Công thức lai trống nội x mái ngoại cho kết quả tốt hơn.
3.2. NHU CẦU DINH DƯỠNG CỦA CHIM BỒ CÂU
Về cơ bản, chim bồ câu cũng cần đầy đủ các chất dinh dưỡng như các loài gia cầm và chim khác, đó là các chất protein, gluxit, lipit, khoáng và vitamin, nước uống.
3.2.1. Nhu cầu về protein
a. Nhu cầu về protein từ 7 đến 28 ngày
Có thể nuôi chim với nồng độ CP protein thô) từ 18-24%, mức 20% là tối ưu.
b. Nhu cầu protein cho chim sinh sản
Theo Demblon, Bruynooghe (2000), tỷ lệ protein của thức ăn phụ thuộc vào các giai đoạn sản xuất của chim sinh sản:
3.2.2. Nhu cầu về năng lượng
a. Nhu cầu năng lượng của chim bồ câu con từ lúc mới nở tới 28 ngày.
Theo các tác giả Moi Cheng và Pran Vonra (2002), nhu cầu năng lượng từ 7 đến 28 ngày được thể hiện như sau:
Bảng 3.2. Nhu cầu ME trong khẩu phần (Kcal/kg) của chim con và tăng trọng của nó (g)                                                                                                                             
Tuổi chim bồ câu (ngày)
Mức ME (Kcal/kg)
2.800
3.000
3.200
3.400
07
137
140
140
139
14
273
309
460
474
21
452
522
659
668
28
517
597
651
664
Khối lượng tăng (g) từ 7 đến 28 ngày
379
457
510
525
b. Nhu cầu ME
Nhu cầu ME cho chim con
Mức năng lượng trong khẩu phần có một tầm quan trọng đặc biệt đối với chim bồ câu con, đặc biệt trong giai đoạn 7 - 21 ngày tuổi. Với nồng độ ME 3.200 - 3.400 kcal, chim bồ câu con đạt được khối lượng cao nhất lúc 21 ngày tuổi. Trong khi đó với mức 2.800 - 3.000 kcal, chim bồ câu con tuần tự đạt 65 gam và 75 gam trong tuần lễ cuối cùng, tức là tăng 14% cho cả 2 trường hợp.
Nhu cầu ME cho chim sinh sản
Cũng như protein, Theo các tác giả Demblon, Vindegovel¼ nhu cầu năng lượng hàng ngày của chim bồ câu bố mẹ sinh sản có khối lượng 400 - 500 g ở nhiệt độ tối thiểu 200C phụ thuộc vào các giai đoạn sản xuất của chim sinh sản, thể hiện tại biểu đồ sau:


Biểu đồ 3.3. Nhu cầu năng lượng trao đổi trong khẩu phần
phụ thuộc vào tuổi và giai đoạn sản xuất (Theo Demblon và ctv, 2000)
Nhu cầu này gồm nhu cầu cho chim bố mẹ và cả cho chim non trong ổ (rất khó tách bạch chính xác từng phần riêng). Nhu cầu năng lượng lúc nghỉ ngơi (hay nhu cầu duy trì): 75 Kcal/ ngày/con (nặng 450 gam), tức 55.000 Kcal/ năm / cặp, tương đương với 19 kg thức ăn với nồng độ năng lượng 2.900 Kcal ME.
Nhu cầu ME hàng ngày của một chim bồ câu từ 120 - 235 Kcal, trung bình là 177,5 Kcal/ngày, tương đương 44 kg thức ăn với mức năng lượng 2.900 Kcal /cặp/1 năm.
Theo tài liệu của Viện chăn nuôi quốc gia, các thông số về dinh dưỡng như sau: Khối lượng thức ăn cho 1 cặp chim bồ câu sinh sản/năm là 43 kg với mức ME 3.000 kcal, phân chia ra:
- Khi ấp: 104 gam/ngày.
- Khi nuôi con: 125 gam/ngày.
- Cho 1 chim từ khi ra ràng (28 - 30 ngày tuổi) tới 6 tháng tuổi là 40 gam/ngày. Đối với chim bồ câu lấy thịt (chim Pháp): 45 - 50 kg/cặp/năm (trại An Phước).
3.2.3. Nhu cầu vitamin và khoáng
Cũng như các loại vật nuôi và gia cầm khác, chim bồ câu rất cần vitamin và khoáng. Chất khoáng phân chia ra làm 2 loại: chất khoáng đa lượng và vi lượng. Cùng với vitamin D3, canxi và phospho có vai trò thiết yếu trong sự cấu tạo các loại xương. Song, các chất này không có nhiều trong thực phẩm bình thường do vậy cần cung cấp thêm dưới dạng sỏi (sạn sỏi coi như "răng" của gia cầm trong đó có chim bồ câu).
Theo Vindegovel, lượng canxi tiêu thụ một ngày 280 - 300 mg từ thời kỳ làm ổ cho tới sản xuất sữa trong bầu diều và có thể đạt tới 600 mg vào lúc chim bố mẹ nuôi chim con ngay trước lúc tách lẻ chim con.
Người ta thường bổ sung các chất có hàm lượng nhỏ này vào một máng thức ăn bổ sung riêng, trong đó chứa vitamin và khoáng. Điều đặc biệt là loài bồ câu có nhu cầu về muối ăn (NaCl) cao hơn rất nhiều so với các gia cầm khác, nên trong máng thức ăn bổ sung cần có đủ muối ăn.
Đối với chim sinh sản, nhu cầu về khoáng đa lượng, nhất là Ca, P cao hơn.
Cần cung cấp Ca, P theo sơ đồ sau.



Biểu đồ 3.4: Nhu cầu Ca, P cho chim bồ câu
(Theo Demblon và ctv, 2000)
3.2.4. Nhu cầu về nước uống
Trong các loài chim, bồ câu là một trong những loài chim tiêu thụ nhiều nước nhất, thông thường gấp 2 lần khối lượng thức ăn thu nhận. Cần có đủ nước để chim uống tự do. Nước phải sạch sẽ, không màu, không mùi và phải thay hằng ngày. Chim thường uống ngay sau khi ăn. Ngoài việc cung cấp nước uống, còn phải cung cấp nước chi chim tắm, đặc biệt trong thời gian thay lông. Chim non thích tắm quanh năm. Tắm giúp cho chim giữ được độ ẩm thích hợp khi ấp trứng; nếu không được tắm, tỷ lệ ấp nở giảm và tỷ lệ sát vỏ cao. Trung bình mỗi chim bồ câu cần 50-90 ml/ngày.
Có thể bổ sung vào trong nước vitamin và kháng sinh để phòng bệnh khi cần thiết.
3.2.5. Thức ăn cho chim bồ câu
Theo tác giả Ngô Ngọc Tư, nuôi 1 cặp bồ câu với khối lượng trưởng thành 700 - 800 gam để sản xuất ra những chim con nặng trung bình 550 gam khi 1tháng tuổi, cần chi phí thức ăn: Cho duy trì là 28 kg thức ăn (có mức ME 3.000 - 3.200 kcal/kg, CP là 11 - 12%);
Cho sản xuất là 1,850 kg thức ăn (có mức ME 3.000 - 3.200 kcal/ kg, CP là 14 - 16%) cho 1 chim bồ câu ra ràng.
Tính ra, cần tiêu tốn 3,360 kg thức ăn/ 1 kg bồ câu con.
Thức ăn bổ sung (chứa vào máng ăn riêng): premix khoáng: 85%; NaCl: 5%; Sỏi: 10%.
Bổ sung liên tục trong máng cho chim ăn tự do. Tuy nhiên hỗn hợp được trộn nên dùng với một lượng vừa phải.
Không nên để thức ăn bổ sung quá nhiều trong một thời gian dài gây biến chất các thành phần có trong hỗn hợp.
(Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu gia cầm Thụy Phương -Viện chăn nuôi Quốc gia)
Thông thường chim ăn trực tiếp các loại hạt thực vật: đỗ, ngô, thóc, gạo... và một lượng cần thiết thức ăn hỗn hợp chứa nhiều chất khoáng và vitamin.
+ Đỗ bao gồm: đỗ xanh, đỗ đen, đỗ tương... Riêng đỗ tương có hàm lượng chất béo cao nên cần cho ăn ít hơn và phải được rang trước khi cho chim ăn.
+ Thức ăn bột đường: thóc, ngô, gạo, cao lương... trong đó ngô là thành phần chính của khẩu phần. Yêu cầu của thức ăn phải đảm bảo sạch, chất lượng tốt, không mốc, mọt.
Chim bồ câu cần một lượng nhất định các hạt sỏi, giúp cho chim trong quá trình tiêu hoá của dạ dày (mề). Kích cỡ của các hạt: dài 0,5-0,8mm, đường kính 0,3-0,4mm. Vì vậy nên cần bổ sung sỏi vào máng dành riêng đựng thức ăn bổ sung cho chim (trộn cùng với muối ăn và premix khoáng).
Cách phối trộn thức ăn
Thức ăn bổ sung (chứa vào máng ăn riêng): premix khoáng: 85%; NaCl: 5%; Sỏi: 10%. Thức ăn cơ bản: hạt đậu đỗ: 25-30%; ngô và thóc gạo: 75-75%.
Sau đây là 2 khẩu phần đang được ứng dụng nuôi chim bồ câu Pháp:
Bảng 3.5 Khẩu phần chim sinh sản và chim dò với nguyên liệu thông thường

Bảng 3.6. Khẩu phần chim sinh sản và chim dò với nguyên liệu thông thường kết hợp với thức ăn hỗn hợp cho gà.

Có thể tham khảo khẩu phần nuôi chim bồ câu của Trung tâm Nghiên cứu gia cầm
Thụy Phương - Viên Chăn nuôi Quốc gia:
Bảng 3.7: Chế độ dinh dưỡng nuôi chim bồ câu dò.

Bảng 3.8: Chế độ dinh dưỡng nuôi chim bồ sinh sản.

Cách cho ăn
- Thời gian: 2 lần trong ngày, buổi sáng lúc 8-9 h, buổi chiều lúc 14-15 h, nên cho ăn vào một thời gian cố định trong ngày.
- Định lượng: thông thường lượng thức ăn bằng 1/10 khối lượng cơ thể. - Chim dò (2-5 tháng tuổi): 40-50g thức ăn/con/ngày.
- Chim sinh sản: (6 tháng tuổi trở đi)
+ Khi nuôi con: 125-130g thức ăn/đôi/ngày
+Không nuôi con: 90-100g thức ăn/đôi/ngày
- Lượng thức ăn/đôi sinh sản/năm: 45-50kg
3.3. NUÔI CÁC LOẠI CHIM BỒ CÂU
3.3.1. Nuôi chim sinh sản
Thông thường một đôi chim đẻ ra từ 1 cặp bố mẹ có một trống và 1 mái, chúng được ghép đôi tự nhiên, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Theo nhiều tác giả, mặc dù là giao phối cận huyết nhưng không gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy vậy, việc đổi trống mái mới sẽ nâng cao đáng kể sức sản xuất của đời sau. Trong chăn nuôi kiểu công nghiệp, khi chim con được 4 tuần tuổi, người ta tách chim bồ câu con ra khỏi ổ và tập trung chúng vào chuồng nuôi chim hậu bị.
a. Chọn chim giống
Nguồn gốc, ngoại hình, khối lượng
-Phải biết rõ nguồn gốc, năng suất của đàn chim bố mẹ, thể hiện qua ngoại hình, màu sắc lông và khối lượng cơ thể. Ví dụ, chim bồ câu Pháp hiện đang nuôi ở Viện Chăn nuôi, chim bồ câu ra ràng 28 - 30 ngày tuổi, khối lượng trung bình 600 gam. Con giống phải có khối lượng trên 600 g; chim Pháp lai có khối lượng trên 550 g, chim ta trên 200 - 250 gam. Kinh nghiệm của người nuôi chim lâu năm: muốn chim bố mẹ đẻ nhiều, nuôi con tốt, phải chọn con có lông bụng dày, mỏ xẻ, bởi con có mỏ trơn khi mớm mồi hay bị trượt, những con mắt treo, đít chim nhọn... thường dễ nuôi, chịu được hoàn cảnh khắc nghiệt.
Phân biệt trống mái
Tỷ lệ trống mái rất quan trọng nhưng rất khó chọn khi chim còn nhỏ. Tuy vậy, bằng kinh nghiệm, người ta vẫn có thể chọn trống mái dựa vào khối lượng: chim trống to hơn con mái, nhất là đầu và cổ; màu sắc lông: nếu cổ mang lông cườm thì phần lớn là chim trống.
Ngoại hình
Chim tốt phải có khối lượng trên trung bình, ngoại hình đẹp, lông bóng mượt, chân, mỏ thẳng, mắt sáng, nhanh nhẹn, hoạt bát, ăn khỏe, phân "đẹp". Cần loại bỏ những con nhỏ, màu lông lai tạp, xỉn màu, xơ xác, buồn bã, chậm chạp, tiêu chảy (phân lỏng)¼,
b. Chế độ chiếu sáng
Trong chăn nuôi chim nói chung, ánh sáng có tác dụng tốt. Khi nuôi thả tự do, chim sống trong không gian bao la thì việc chiếu ánh sáng rất khó thực hiện và cũng không cần thiết. Trái lại, với hình thức nuôi nhốt ở quy mô vừa và lớn thì phải chiếu sáng ít nhất là 10 giờ/ngày, cường độ 4 - 5 wat/m2 chuồng. Với chim hậu bị 4 tháng tuổi, cần tăng thêm từ 1 - 2 giờ chiếu sáng tự nhiên trong ngày, sau đó tăng thêm 1/4 giờ chiếu sáng, cứ 2 ngày 1 lần cho chim bồ câu sinh sản.
c. Ghép đôi
Từ 4 - 5 tháng tuổi, chim bồ câu hậu bị đã bắt đôi một cách tự nhiên. Trên cơ sở "tình yêu"đó, ta tách riêng, đưa chúng lên chuồng để kiểm tra sinh sản. Đây là sự thay đổi từ cuộc sống quần thể ở sàn nuôi chung sang cuộc sống từng cặp ở chuồng lồng kiểm tra. Ngoài những cặp đã cặp đôi tự nhiên, còn có những con trống và mái riêng lẻ cần ghép đôi nhân tạo. Việc này đòi hỏi công nhân có kỹ năng và kinh nghiệm. Có thể nhốt mỗi con một ô cạnh nhau để cho chúng "quen mắt quen hơi", dùng chung máng ăn, máng uống. Sau một thời gian, chúng đã thân nhau thì ghép thành cặp.
d.Kiểm định chim
Sau khi lên chuồng kiểm định 30 - 45 ngày, chim sẽ đẻ lứa đầu. Tiến hành kiểm định khả năng sinh sản: tuổi thành thục, số trứng/ổ; khối lượng và chất lượng trứng; tỷ lệ nở, chất lượng con non, khả năng tiết "sữa diều" (thông qua khối lượng con non); thời gian đẻ lại¼, từ kết quả thu được, tiến hành chọn giống. Trước hết, nên chọn những cặp đẻ sớm, nuôi con mau lớn và sớm đẻ lại lứa sau. Nếu có đôi ấp nở kém, nên đảo trống mái (vì có thể đôi cũ đều là 2 con mái); loại bỏ những cặp chim đẻ quá muộn ( 8 - 10 tháng mà vẫn chưa đẻ).
Sau khi kiểm tra 1 - 2 lứa đẻ, nên chuyển những cặp sinh sản ổn định từ ô chuồng kiểm định ra sàn nuôi tập thể nhiều con.
e.Theo dõi sự đẻ trứng
Sau khi đã bắt cặp, 8 - 12 ngày sau chim mái sẽ đẻ quả trứng đầu tiên. Thông thường chim mái đẻ 2 trứng / lứa, cách nhau khoảng 44 giờ. Ít khi chim đẻ 1 hay 3 trứng. Chim bồ câu mái đẻ quanh năm. Trong những điều kiện chăn nuôi hợp lý, một cặp chim câu bố mẹ có thể sinh sản ra 12 - 14 chim bồ câu con.
Sau khi cặp đôi, chim mái thường đẻ trứng thứ nhất vào buổi chiều, giữa 5 - 7 giờ tối. Trứng đầu tiên thường nhỏ hơn trứng sau này. Sau khi đẻ quả trứng thứ hai, chim bắt đầu ấp.
Đôi khi chim ấp ngay sau khi đẻ quả trứng đầu tiên. Nếu không để ý và can thiệp thì trứng thứ nhất sẽ nở trước quả thứ hai 36 giờ. Khi đó, chim con nở trước có kích thước gấp đôi chim con nở sau, nó sẽ lớn và khoẻ hơn, ăn nhiều hơn, chèn ép con thứ hai, nếu không có sự can thiệp kịp thời thì con chim bé này hoặc bị chết, hoặc còi cọc. Để ngăn ngừa hiện tượng này, ta nên lấy quả trứng đẻ trước ra khỏi tổ, trả lại tổ sau khi chim mẹ đẻ xong quả trứng thứ hai.
Bảng 3.9: Một số chỉ tiêu bên ngoài của trứng chim bồ câu Pháp
Bảng 3.10: Tỷ lệ các phần của trứng chim dòng Titan.
f.Ấp trứng tự nhiên
Sau khi đẻ xong, chim ấp ngay. Thời gian ấp trứng trung bình là 18 ngày (mùa nóng là 17 ngày, mùa lạnh là 18,5 ngày). Nếu chim ấp 3 trứng thì thời gian nở có thể kéo dài thêm nửa ngày.
Trong hầu hết trường hợp, chim mái ấp từ 4 - 5 giờ chiều hôm trước cho tới 10 - 11 giờ ngày hôm sau; chim trống ấp thời gian còn lại trong ngày, khoảng 6 - 7 giờ. Sau 5 ngày ấp, có thể soi để loại trứng không có phôi. Cần soi trứng khi chim bố mẹ không có nhà hoặc phải làm thật nhẹ nhàng, khéo léo để không làm chim sợ, vỡ trứng.
Khi chim nở, nếu thấy chim con đã mổ vỏ mà không nở ra được, có thể do chim con quá yếu hoặc vỏ cứng quá, có thể lấy trứng ra khỏi ổ, bộc lộ cho cho đầu chim con được tự do, nhưng không được làm gì thêm, sau đó, đặt lại trứng vào ổ, trứng sẽ tự nở.
Bảng 3.11. Một số tập tính sinh sản của chim bồ câu.
g."Sữa" diều chim
Diều chim bồ câu tiết ra một loại dịch diều, có nồng độ dinh dưỡng tương tự như sữa của động vật có vú để nuôi chim non mới nở.
Trong những ngày đầu mới nở, "sữa" là thức ăn duy nhất của chim câu con. Từ ngày thứ 4 - 5, bắt đầu có sự chuyển tiếp về dinh dưỡng, chim bố mẹ trộn vào sữa một số thức ăn đang tiêu hoá dở, đầu tiên là những hạt bé li ti, sau đó là thức ăn cho chim trưởng thành. Đến ngày thứ 12 - 15 là thời điểm quyết định đối với chim câu con, chim bố mẹ dừng cấp sữa. Cũng có khi sự tiết sữa kéo dài tới tận ngày thứ 20 - 25, nhưng với một lượng nhỏ so với nhu cầu của chim, vì vậy, chim con phải tự ăn thức ăn từ môi trường.
Thông thường, chim bồ câu bố mẹ vừa nuôi chim bồ câu con một tháng tuổi, vừa mớm lứa chim bồ câu mới nở. Chim bố mẹ hoàn toàn có khả năng phân phối thức ăn hạt cho con lớn và sữa hoàn chỉnh cho con nhỏ mà không hề để lẫn 2 loại với nhau.
Nếu sau khi ấp, chỉ nở 1 con thì có thể đem con đó ghép vào ổ có 1 con khác (nếu không có thì ghép vào ổ 2 con khác) với ngày nở chênh lệch không quá 2- 3 ngày, để cho bố mẹ chúng đẻ lứa khác.
Trong thời kì nuôi con (từ khi nở đến 28 ngày tuổi), cần thay lót ổ thường xuyên (2 - 3 ngày/lần). Khi chim non được 7 - 10 ngày tuổi, tiến hành cho ổ đẻ thứ hai vào để chim chuẩn bị đẻ lứa mới.
Bảng 3.12: Một số chỉ tiêu sinh sản của ba dòng chim bồ câu Pháp
(n = 30 đôi)
Kết quả nhân thuần dòng chim bồ câu Pháp qua 4 thế hệ tại Trung tâm Nghiên cứu gia cầm Thụy Phương -Viện Chăn nuôi Quốc gia, 2007
Bảng 3.13: Khối lượng chim qua các giai đoạn (g).
 Biểu đồ 3.14: Khối lượng chim bồ câu từ mới nở đến 28 ngày tuổi.

Bảng 3.15: Khả năng sinh sản qua các thế hệ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tuổi thành thục sinh dục của dòng VN1 ổn định qua các thế hệ từ 173 - 175 ngày. Số trứng/lứa, khoảng cách lứa để đều ổn định. Chim đẻ 17,5-18 quả trứng/năm/đôi, ổn định qua 5 thế hệ.
Bảng 3.16: Tỷ lệ ấp nở và khả năng nuôi con.

 Qua 5 thế hệ, chim VN1 vẫn duy trì tập tính ấp và nuôi con khéo, số chim non tách mẹ/cặp/năm đạt từ 12,25-13,76 con. Tuy nhiên số con nở ra trên năm không đều và có xu hướng giảm qua các thế hệ.
Bảng 3.17: Tiêu tốn thức ăn (kg).
Tổng thức ăn tiêu thụ cho 1 đôi/năm qua 5 thế hệ lần lượt là: 43,2; 41,97; 43,00 và 42,8kg. Tiêu tốn thức ăn/kg thịt hơi lần lượt là 5,54; 5,96; 5,87; 5,86 và 5,88kg kg, tương đương so với nguyên gốc.
h.Chăm sóc chim trong ổ đến khi ra ràng
Chỉ sau vài giờ nở ra, chim bồ câu con hoàn toàn khô, liền sau đó, chim bồ câu bố mẹ bắt đầu "mớm" cho chúng dòng sữa đầu tiên ít ỏi. Điều đặc biệt là bầu diều chim con rất to, có thể chứa được một lượng thức ăn bằng 1/2 khối lượng cơ thể của nó. Đó thực sự là một ống tiêu hoá hoạt động mạnh mẽ, giúp cho chim non phát triển hết sức nhanh trong giai đoạn đầu.
Chim bồ câu con nở ra gần như trần trụi, chỉ được che phủ bởi một lớp lông tơ màu vàng phớt. Vào ngày thứ 6 - 8, những ống lông bắt đầu xuất hiện. Sang ngày thứ 2, những ống lông này mở ra thành những lông đầu tiên trên cánh và lưng. Chim bồ câu con rất nhạy cảm với lạnh cho tới ngày thứ 15. Sự mọc lông kết thúc vào ngày tuổi thứ 28 ở đùi và phía dưới cánh.
Thông thường, khi lông dưới cánh mọc đầy đủ người ta mới quyết định ăn thịt hoặc nuôi tiếp để làm giống. Sau hai tuần, chim bồ câu con thường bị bỏ riêng trong ổ với thời gian ngày càng dài, đặc biệt là vào ban ngày vì bố mẹ chúng bận rộn chuẩn bị cho lứa đẻ tiếp theo. Đây là thời kỳ rất quyết định đối với chim con, khi chúng bị bố mẹ sao nhãng. Trong thời gian đó, chim bố thường ép chim mẹ nằm vào ổ để đẻ lứa mới. Vào thời gian này, cần tạo thêm cho chúng một cái ổ đẻ mới, đặt cao hơn ổ cũ để con lứa trước không dẫm đạp lên trứng của lứa sau.
Sau 14 tới 18 ngày kể từ khi chim lứa trước nở ra, chủ yếu là chim bố săn sóc chim con, (còn chim bẹ thì bận rộn với lứa mới), do đó, lượng sữa diều giảm đi, chim non phải bắt đầu tập ăn nên máng ăn và máng uống cần đặt ngay trong ô chuồng của chim bố mẹ. Cần cho chim con nhìn và bắt chước động tác ăn, uống của chim trưởng thành.
Khi đã lớn hơn, chim con ăn mạnh hơn và bắt đầu tập bay, nhiều khi chúng bị rơi khỏi ổ, rất dễ xảy ra "tai nạn" nguy hiểm, cần chú ý theo dõi để cứu trợ kịp thời. Nếu nuôi bằng chuồng nuôi riêng lẻ thì cách đơn giản nhất là làm một giá đỡ phía dưới chuồng để để hứng chim con bị rơi, từ đây bồ câu con có thể bay trở lại hoặc được cứu hộ, trả về ổ cũ.
Nếu một đôi chim non có 1 con quá to, 1 con quá bé, cần lấy chim bé hơn ra khỏi tổ và gửi nó sang một ổ khác mà các chim con nhỏ hơn nó. Bằng cách này, chim sẽ mau lấy lại sức và phát triển bình thường. Vấn đề là làm sao để chim bố mẹ của ổ mới chấp nhận nó, cần chú ý tới màu lông phải tương đối giống nhau và nên tiến hành vào ban đêm. Sự thật đây là việc làm khá công phu và đòi hỏi người chăn nuôi có kinh nghiệm. Vả lại, sự chấp nhận hay không còn tùy thuộc vào giống bồ câu và tình mẫu tử của từng cặp chim bồ câu bố mẹ.
Chim bồ câu con thường "phóng uế" ra xung quanh ổ, nhờ vậy mà phía giữa ổ luôn khô ráo (trừ trường hợp có bệnh tiêu chảy). Vào lúc tách chim, ổ có hình dáng một cái chậu nhỏ mà thành bờ được nâng cao bởi một lớp phân khô cứng.
Đối với giống bồ câu thịt, chim bồ câu con chuẩn bị rời ổ vào khoảng 4 tuần tuổi. Có khi chúng rời chuồng vì tai nạn hoặc không được chim bố mẹ nuôi dưỡng đầy đủ. Khi chúng rời chuồng quá sớm thì sự tăng trưởng bị chậm hẳn lại bởi chúng không được nuôi dưỡng chu đáo nên dễ bị ốm. Đây là thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng của chim non. Trong thực tiễn chăn nuôi, người ta thường thu gom chim bồ câu ra ràng để lấy thịt thích hợp nhất là vào 4 tuần tuổi. Sau khi tách mẹ 2 - 3 ngày, xảy ra sự giảm khối lượng của chim non, tối thiểu là 5%.
Sự sinh trưởng của chim bồ câu
Chim bồ câu con có tốc độ sự sinh trưởng đặc biệt nhanh, chỉ trong 36 -48 giờ, khối lượng của nó đã tăng gấp đôi. Cơ thể chim non tăng trưởng nhanh nhất khi 5- 20 ngày tuổi, chúng tăng lên khoảng 50 gam, nhưng thịt chim bồ câu con mềm, nhão do chứa nhiều nước và rất ít bắp cơ. Trong phạm vi 3 tuần lễ, chim bồ câu con gần như đạt được khối lượng thương mại. Sau 4 tuần tuổi, chim bồ câu con ra ràng đã có thể ăn thịt được (nhất là đối với giống chim bồ câu hướng thịt). Tuy vậy, vào lúc này thịt chim bồ câu còn mềm. Có thể cải thiện chất lượng thịt của chim câu ra ràng bằng cách nuôi thêm một số ngày nữa với thức ăn thích hợp, đó là quá trình "vỗ béo" chim câu con.
Sau 7 hoặc 8 tuần, những lông cánh đầu tiên xuất hiện và chim non sẽ sớm có màu lông của chim trưởng thành. Vào thời gian này, chim non cần sự yên tĩnh và nghỉ ngơi. Thêm vào đó, chúng cần ánh sáng mặt trời và một chế độ ăn cân đối. Vào những ngày trời nắng, chúng nằm xoè rộng cánh để tắm nắng. Chim non cũng thích tắm nước. Ta có thể đặt một cái chậu nhựa hoặc chậu men với đường kính thích hợp, sâu từ 10 - 15cm. Nước tắm cần phải sạch và thay thường xuyên. Sau khi tắm, chim dùng mỏ rỉa lông, quá trình đó thúc đẩy sự lưu thông máu. Tắm có thể coi là một chỉ số để đánh giá sức khoẻ của chim, những chim ốm yếu thì không tắm.
Chim bồ câu thích sống thành bầy đàn. Không nên nuôi bồ câu riêng rẽ. Khi chim bồ câu trưởng thành về sinh dục thì có sự thay đổi. Những con chim trống thường đánh nhau, nhưng rồi mỗi con sớm chọn được bạn tình và chỗ của mình.
3.3.2. Vỗ béo chim bồ câu con (sản xuất chim bồ câu 6 tuần tuổi)
Ở 4 tuần tuổi, chim bồ câu con có thịt rất mềm, chưa có nhiều bắp cơ và có tỷ lệ nước khá cao. Một số người tiêu thụ thích loại chim bồ câu ra ràng "già" thêm hai tuần để nâng cao chất lượng thịt.
Khi bị tách khỏi ổ, chim đã "hao" khối lượng và chim bồ câu ra ràng chỉ lấy lại được khối lượng ban đầu sau một tuần lễ; vào 6 tuần tuổi, chim bắt đầu thay lông. Và sau gần 7 tuần, mới hoàn toàn có một bộ lông mới. Nếu thịt vào 6-7 tuần tuổi thì thân thịt rất xấu do có nhiều lông măng và chân lông, vì thế người chăn nuôi cũng như người giết mổ vẫn có xu hướng xuất thịt ngay sau khi chim ra ràng, 4 tuần tuổi.
Người ta cho rằng, vỗ béo chim chỉ nên tiến hành với chim còi hoặc yếu ớt mà thôi. Trong 5 này đầu tiên, nên cho ăn đầy đủ dinh dưỡng giàu đạm, ME, vitamin và vi khoáng.
Năng suất thịt chim bồ câu thịt ra ràng rất cao: năng suất thịt trừ lông có thể đạt tới 82 - 83% và năng suất thịt hữu dụng (bỏ nội tạng) có thể đạt tới 63 - 64%.
Bảng 3.18. Lượng thức ăn tiêu thụ (kg/đôi/giai đoạn)
và tiêu tốn thức ăn cho 1 kg thịt hơi của 3 dòng chim bồ câu Pháp.

Bảng 3.19. Năng suất thịt của chim bồ câu Pháp lúc 28 ngày tuổi
(n= 3 trống; 3 mái)
Bảng 3.20. Thành phần hoá học của thịt chim bồ câu Pháp lúc 28 ngày tuổi.

Bảng 3.21. Thành phần axit amin trong thịt chim bồ câu Pháp


Ghi chú: (*) Kết quả của phòng phân tích TĂ&DDGS-Viện Chăn nuôi)
(1) Chim b ồ câu nội được nuôi dưỡng trong cùng một điều kiện với chim bồ câu Pháp và được giết thịt ở 28 ngày tuổi.
Nuôi vỗ béo chim lấy thịt
Tiến hành tách mẹ lúc 20 - 21 ngày tuổi ( khi khối lượng cơ thể đạt 350 - 400g/con), sau đó nhồi thức ăn để vỗ béo chim.
Lồng nuôi: dùng lồng như chuồng cá thể, cần đảm bảo sạch sẽ, yên tĩnh, thoáng mát, chỉ có ánh sáng khi cho chim ăn uống. Mật độ: 45 - 50 con/m2; không để chim hoạt động nhiều, đảm bảo ngoài giờ ăn, uống thì chim chỉ ngủ là chính.
Thức ăn dùng để nhồi: 80% ngô; 20% đậu xanh. Cách nhồi: thức ăn được nghiền nhỏ, viên thành viên nhỏ, ngâm cho mềm rồi sấy khô đảm bảo tỷ lệ thức ăn/nước là 1/1. Định lượng: 50 - 80g/con. Thời gian 2 - 3 lần/ngày .
Khoáng được bổ sung tự do, các loại vtamin, thuốc bổ khác được bổ sung trong nước uống.
3.4. PHÒNG TRỪ DICH BỆNH CHO CHIM BỒ CÂU
3.4.1. Vệ sing phòng bệnh
Muốn cho chim bồ câu khoẻ mạnh, có sức đề kháng cao thì trước hết là nên nuôi dưỡng chúng trong điều kiện vệ sinh thật tốt với khối lượng thực thức ăn đầy đủ cả về số lượng và chất lượng, đồng thời đảm bảo đủ nước sạch. Chuồng trại rộng rãi, thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông, thoáng khí, triệt để chống ẩm, cách ly tốt.
Thường xuyên kiểm tra chuồng, ổ chim để loại bỏ trứng hỏng và chim non chết, định kỳ tẩy uế chuồng trại... Đây là việc làm rất cần thiết để xử lý kịp thời vì chuồng chim bồ câu thường rất bẩn và nhiều diễn biến bất thường như chim chết, bị dột, động vật có hại tấn công¼
3.4.2. Tiêm phòng, dùng kháng sinh vàđiều trị kịp thời
Là một biện pháp hết sức hữu hiệu tạo ra sự miễn dịch chủ động cho chim bồ câu. Cần tiêm phòng các bệnh đậu, newcatle¼, định kỳ cho uống thuốc kháng sinh, phòng bệnh đường tiêu hóa, tẩy ký sinh trùng (nội, ngoại) cho chim... nếu làm đúng quy trình thì đàn chim sẽ khỏe mạnh, lớn nhanh, chất lượng thịt cao.
3.4.3. Hệ thống vệ sinh thú y
a. Vành đai trắng và vành đai an toàn dịch
Để đảm bảo an toàn dịch bệnh, các trại chăn nuôi chim phải xây dựng vành đai trắng và vành đai an toàn dịch theo quy định.
- Vành đai trắng là khu vực mà trong đó không được nuôi bất kỳ một loại gia súc, gia cầm nào.
+ Các trại giống gốc, ông bà và bố mẹ phải có vành đai trắng đảm bảo bán kính từ 500 - 1000m (tính từ hàng rào bảo vệ).
+ Các trại thương phẩm phải có vành đai trắng đảm bảo bán kính từ 200 - 300m.
- Vành đai an toàn dịch là khu vực mà trong đó các loại gia súc, gia cầm phải được tiêm phòng đầy đủ các loại vacxin phòng bệnh truyền nhiễm theo định kỳ.
Với tất cả các trại, vành đai an toàn dịch phải có bán kính từ 3 - 5km.
b. Hệ thống tiêu độc
Hệ thống tiêu độc bao gồm các hố tiêu độc, các nhà phun thuốc tiêu độc để tiêu độc cho người và các phương tiện trước khi đi vào khu vực chăn nuôi.
Hệ thống này khác nhau tuỳ theo thiết kế, điều kiện cơ sở vật chất và trình độ kỹ thuật của mỗi cơ sở chăn nuôi.
Đối với các cơ sở chăn nuôi hiện đại, người ta thường xây dựng những nhà phun thuốc sát trùng bằng hệ thống phun sương để tiêu độc cho người và các phương tiện trước khi đi vào trang trại (phòng "tắm" cưỡng bức).
Đối với các trang trại chưa có khả năng đầu tư hiện đại, hệ thống tiêu độc này thường bao gồm các hố lớn và các hố nhỏ chứa thuốc sát trùng để tiêu độc đối với người và phương tiện ra, vào trại. Các hố lớn để tiêu độc đối với các loại ôtô ra vào trại. Kích thước của các hố này tuỳ thuộc vào loại xe mà cơ sở chăn nuôi sử dụng. Chiều dài của hố phải lớn hơn 2, 5 lần chu vi bánh xe cỡ lớn nhất của mỗi cơ sở. Các hố nhỏ hơn dùng để tiêu độc đối với người và các phương tiện thô sơ.
Trước cửa mỗi chuồng nuôi có một hố sát trùng để tiêu độc trước khi vào chuồng nuôi.
c. Hệ thống lò thiêu và hố chôn
Hệ thống lò thiêu và hố chôn rất cần thiết cho mỗi trại chăn nuôi chim, nhất là chăn nuôi theo phương thức công nghiệp. Hệ thống này được sử dụng để loại bỏ xác những con gia cầm chết hoặc các loại rác, chất thải có nguy cơ gây bệnh hay đe doạ tới sức khoẻ của đàn chim và người chăn nuôi. Hệ thống lò thiêu và hố chôn cần được bố trí ở phía sau trại, cuối hướng gió và tốt nhất là cách xa khu vực chuồng nuôi trên 500m.
Lò thiêu có thể tích buồng đốt từ 0,2 - 0,5m3 được dùng nhiều ở các trại chim lớn. Nhiên liệu đốt có thể là dầu, củi hay bằng điện.
Hố chôn thường được đào sâu từ 1, 2 đến 3m, miệng hình vuông, mỗi chiều từ 1,3 - 2m, trên đậy kín bằng ván gỗ và được lấp đất lên. Chính giữa hố có đặt một ống có nắp đậy để bỏ xác chim và rác cùng với vôi bột.
3.4.4. SÁT TRÙNG CHUỒNG TRẠI, THIẾT BỊ VÀ DỤNG CỤ CHĂN NUÔI
Sát trùng chuồng trại, thiết bị và dụng cụ chăn nuôi có nhiều loại và theo qui trình nhất định.
Có loại làm thường xuyên, có loại làm định kỳ, bao gồm 5 loại chính:
- Sát trùng trước khi nhập chim vào trại (trước 1 ngày).
- Sau khi đàn chim xuất chuồng
- Sát trùng định kỳ: khoảng 15 - 20 ngày phun thuốc sát trùng trực tiếp vào đàn chim 1 lần (có thể dùng thuốc virkon theo hướng dẫn của nơi sản xuất)
- Sát trùng trước và sau khi tiêm vacxin 1 ngày. - Sát trùng khi có bệnh xảy ra.
3.4.4.1. Qui trình vệ sinh tiêu độc chuồng nuôi
a. Khu vực xung quanh chuồng nuôi
- Thường xuyên cắt cỏ, phát quang xung quanh chuồng nuôi trong khoảng cách tối thiểu là 4 m. - Quét dọn vệ sinh hàng ngày.
- Định kỳ mỗi tuần một lần vệ sinh tiêu độc xung quanh chuồng nuôi bằng một trong các loại hoá chất sau: formol 2 - 3%, xut (NaOH) nồng độ 2 - 3% với liều lượng 0, 65 - 1 lít/m2. Có thể dùng các loại hoá chất khác như chloramin, prophyl, virkon, biocid, farm fluid, longlefe ¼ theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
- Định kỳ mỗi tháng 2 lần tổ chức diệt chuột, phun thuốc diệt ruồi, muỗi, côn trùng.
b. Sau khi kết thúc mỗi đợt nuôi (xuất chuồng)
- Đưa toàn bộ trang thiết bị và dụng cụ chăn nuôi ra ngoài . - Đưa toàn bộ lớp độn chuồng cũ ra ngoài.
- Quét dọn và rửa sạch sẽ trần, tường, lưới, nền, nạo vét cống rãnh thoát nước.
- Để khô ráo, tiến hành sửa chữa những phần hư hỏng (nếu có). Sau đó tiến hành tiêu độc theo các bước: - Phun dung dịch foocmol hoặc xút (NaOH) nồng độ 2 - 3% với liều 0,65 - 1lít/ m2( có thể
sử dụng các loại hoá chất khác như như chloramin, prophyl, virkon, biocid, farm fluid, longlefe ¼ theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
- Dùng vôi bột sống rắc lên nền chuồng dày khoảng 0,5 - 1,0 cm, dùng ôzoa phun nước lên. Sau 1 ngày hót sạch bã vôi ra ngoài.
- Quét vôi nền, sàn, tường và khu vực xung quanh chuồng nuôi bằng dung dịch nước vôi 20%. Quét 2 lần, mỗi lần cách nhau khoảng 1 - 2 giờ.
- Xông hơi formaldehyt (6, 5g thuốc tím + 13ml formol cho 1m2 nền chuồng). - Để trống chuồng từ 2 - 3 tuần mới tiếp tục nuôi lứa mới.
c. Trước khi tiếp tục đợt nuôi mới
- Vệ sinh chuồng trại, quét vôi nền, sàn, tường và khu vực xung quanh chuồng nuôi bằng dung dịch nước vôi 20%.
- Phun dung dịch foocmol hoặc xút (NaOH) nồng độ 2 - 3% với liều 0,65 - 1lít/ m2.( có thể sử dụng các loại hoá chất khác như chloramin, prophyl, virkon, biocid, farm fluid, longlefe ¼ theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
- Xông hơi formaldehyt (6, 5g thuốc tím + 13ml formol cho 1m2 nền chuồng) hoặc phun thuốc sát trùng Virkon trước khi nhập chim ngày.
3.4.4.2. Vệ sinh tiêu độc trang thiết bị chăn nuôi
- Máng ăn, máng uống được ngâm, rửa sạch bằng nước lã. Sau đó ngâm vào bể thuốc sát trùng có dung dịch foocmol 1% từ 10-15 phút (có thể sử dụng các loại hoá chất khác như iodin, chloramin, virkon, biocid ... theo hướng dẫn của nhà sản xuất). Sau khi ngâm, lấy ra, tráng lại bằng nước sạch rồi đem phơi khô.
- Lau sạch chụp sưởi, sau đó nhúng giẻ lau sạch vào dung dịch foocmol 2%, vắt ráo nước rồi lau sát trùng. Có thể sử dụng các loại hoá chất khác như iodin, chloramin, virkon, biocid ... theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
- Vệ sinh ổ đẻ: rửa sạch, phơi khô, tiêu độc bằng foocmol 2%.
- Vệ sinh bể nước: rửa sạch, để khô rồi sát trùng bằng foocmol 2%.
- Chất độn chuồng: đảm bảo khô ráo, tơi xốp và không bị mốc; có khả năng hút ẩm và cách nhiệt tốt. Phơi khô, phun foocmol 0,5% hoặc iodin 2%, ủ bạt kín trong 2 tuần
Chương II: Nuôi bồ câu quần thể
Đây là phương thức nuôi phù hợp với mô hình các hộ gia đình với quy mô nhỏ đến vài trăm con.
1. Chuồng nuôi, máng ăn, máng uống.
Trước tiên cần phải xác định số lượng sẽ nuôi hiện tại và trong thời gian sau đó để xây chuồng trại hợp lý, định mức hợp lý cho dạng nuôi quần thể là 1m2 nuôi được 2-3 cặp chim. Với các gia đình có thể tận dụng các chuồng trại cũ , chuồng gà, chuồng lợn bỏ không, nhà cũ…Dùng lưới B40, lưới cước, lưới mắt cáo….vây kín xung quanh để không cho chim bay ra ngoài, nên tạo một khoảng không gian bên ngoài để làm chỗ cho chim phơi tắm nắng, có bể tắm cho chim.
Chuồng nuôi phải đảm bảo có ánh sáng mặt trời, khô ráo, thoáng mát vào mùa hè, sạch sẽ, tránh gió lùa vào mùa đông, tránh ồn ào, tránh sự xâm nhập của chó, mèo, chuột.
Chuồng để chim đẻ có thể đóng bằng tre, gỗ hoặc xây bằng gạch chia làm 3 – 4 tầng và chia thành nhiều chuống nhỏ để tiết kiệm diện tích, giữa các tầng phải có ngăn chắn phân hoặc phải đóng khít tránh dơi phân xuống các tầng dưới. Nên chia chuồng thành các ô nhỏ cho mỗi cặp chim: chiều cao 50 cm, chiều sâu 40cm, chiều rộng 40cm. Mỗi ô chuồng chia làm 2 tầng: tầng trên để chim đẻ trứng và ấp trứng, tầng dưới để nuôi chim con.  Sau khi chim con nở được khoảng 10 ngày chim bố mẹ bắt đầu chuẩn bị đẻ lứa mới, lúc này ta chuyển chim con xuống tầng dưới và vệ sinh đặt ổ đẻ lên tầng trên cho chim mái đẻ lứa mới. Phía trước để thông thoáng hết mà không cần khoét lỗ như cách làm trước đây. Tuy nhiên, không nên để thành hành lang suốt trước các ô chuồng mà có vách ngăn các ô với nhau để tránh tình trạng tranh nhau một con chim trống có thể chiếm nhiều ô chuồng gây lãng phí.
Máng ăn, máng uống mua loại dùng cho gà công nghiệp hoặc có thể tự chế nhưng phải đảm bảo để chim không ị vào được máng ăn, máng uống.
2. Ổ đẻ.
Ổ đẻ có thể dùng bằng rổ nhựa loại nhỏ đường kính khoảng 20cm để làm tổ , dùng rơm để vặn tổ , hoặc dùng vỏ- lốp xe đạp cũ bỏ sau đó cắt đôi ra ,rồi ỏe ngược lại dung dây hoặc đinh buộc lại sẽ thành một vòng tròn là 1 tổ chim rất đẹp, bền và rẻ. Các tổ phải để và buộc cố đính tránh chim nhảy lên làm lật tổ.
3. Chọn giống.
Về cơ bản chọn giống cho phương thức nuôi này cũng giống như chọn giống cho nuôi công nghiệp. Tuy nhiên, giống chim phù hợp hơn cả là giống chim bồ câu Pháp lai do chúng có sức đề kháng cao, nuôi con tương đối khéo.
Khi đi mua giống phải chọn các cơ sở cung cấp có chim khỏe mạnh, chọn chim có lông bụng dầy mượt, khoẻ mạnh, mỏ xẻ, không có dị tật, lanh lợi, đuôi nhọn nhìn hình thức thấy nhanh nhẹn. Không lên mua giống với số lượng lớn ngay và mua của nhiều cơ sở cung cấp giống do mỗi cơ sở thường chim đã ủ 1 số mầm bệnh nhất định. Do đặc điểm của phương thức nuôi này là thả thành đàn, tập trung trong môi trường chật hẹp, do đó nếu ta mua giống của nhiều cơ sở, chim mang nhiều mầm bệnh khác khi thả chung vào một chuồng chúng sẽ lây lan bệnh chéo cho nhau, một con bị nhiều loại bệnh một lúc sẽ rất khó chữa. Vì vậy, cách tốt nhất là mua ít về chúng ta tự gây đàn.
3.1. Ghép cặp cho chim.
Sau  khi chim giống được khoảng 4,5 đến 5 tháng tuổi ta tiến hành ghép cặp cho chim. Nếu chim trống và mái đã đến thời kỳ sinh sản thì việc ghép đôi rất đơn giản: cứ nhốt chung trống mái vào một chuồng có kích thước khoảng 50x50x50(cm), ban đầu con trống có thể mổ con mái túi bụi nhưng sau khi con mái cho con trống đạp mái thì việc ghép coi như xong, cứ nuôi chung trong chuồng khoảng 1 tuần cho tình nghĩa vợ chồng của chúng đậm đà là thả ra chuồng quần thể. Lúc này, con trống sẽ chiến đấu và tự tìm cho vợ chồng nó một ô chuồng thích hợp để chuẩn bị sinh sản.
Nếu chim trống và mái còn non, chưa sẵn sàng sinh sản thì việc ghép cặp khó khăn hơn. Con mái không chịu cho con trống đạp mái do đó nó sẽ bị "ăn đòn" suốt, nếu để lâu có thể hỏng chim. Do đó ta phải nhốt mái và trống vào 2 ô chuồng cạnh nhau, vách ngăn của 2 ô chuồng bằng lưới thoáng để 2 con trống và mái nhìn thấy nhau, có thể thiết kế để 2 con ăn uống chung 1 máng. Sau vài ngày ta tháo vách ngăn để 2 con chung một chuồng, nếu thấy con mái chịu để con chống đạp mái thì việc ghép cặp thành công, nếu thấy chúng đánh nhau sứt đầu mẻ trán thì lại phải kiên nhẫn làm lại từ đầu.
Sau khi chim đã ghép cặp thành công, chúng sẽ tự tìm cho mình một ô chuồng phù hợp, thông thường các con trống khỏe mạnh, hoặc "đầu gấu" sẽ chọn cho mình các ô chuồng ở trên cao, nhiều khi một mình nó chiếm mấy ô chuồng. Các con trống yếu thế hơn hoặc các cặp đôi đến sau buộc phải chọn các ô chuồng ở bên dưới. Do đó, chuồng nuôi phải làm có số ô chuồng nhiều hơn số cặp chim.
Khi chim đẻ lứa đầu lên bỏ trứng ngay sau khi chim đẻ quả thứ hai để chim đẻ lứa khác vì chất lượng trứng con so thường bé hoặc không có trống do chim bố mẹ chưa thành thục.
Sau 18 ngày khi chim đẻ quả đầu tiên thì chim con nở, sau khi nở khoảng 10 ngày chuyển xuống ngăn chuồng bên dưới để chim bồ mẹ tiếp tục đẻ lứa tiếp theo. các ô chuồng phải đánh số thứ tự, có sổ theo dõi để loại bỏ các đôi bố mẹ đẻ kém. Cách loại bỏ các cặp đẻ kém như sau:
- Nếu chim mái đẻ đều (khoảng 40 ngày/ 1 lứa), nhưng trứng sau khi ấp khoảng 5 ngày soi thấy không có trống 1 quả hoặc cả 2 quả, kiên nhẫn theo dõi nếu thấy tình trạng tiếp tục tiếp diễn khoảng 3 lứa thì ghép cặp với con trống khác.
- Nếu chim trống vẫn đạp mái liên tục nhưng chim mái đẻ không đều, khoảng cách các lứa quá xa (trên 50 ngày) thì ghép cặp với con mái khác. Cách ghép cặp như đã nói ở trên.
4. Phòng, trị bệnh:
- Với chim bồ câu non từ 1 – 10 ngày tuổi: trong thời gian này cần nhỏ thuốc phòng bệnh Newcastle loại LASOTA hệ 1 : nhỏ 1 giọt vào mũi và 2 giọt vào miệng chim non. Đồng thời cho chim bồ câu bố mẹ uống thêm các Vitamin (điện giải, đường Gluco).
- Sau khi nhỏ thuốc phòng bệnh Newcastle loại LASOTA hệ 1 một tuần thì tiến hành chủng vacxin đậu gà.
- Với chim bồ câu  từ 20 – 30 ngày tuổi: trong thời gian này cho uống kháng thể để phòng bệnh Newastle, Gumboro, IB, và các bệnh đường tiêu hóa .
- Với chim bồ câu từ 40 – 60 ngày tuổi: nhỏ LASOTA hệ 2 để phòng Newcastle (cách nhỏ cũng giống như khi phòng cho chim từ 1-10 ngày tuổi). Thức ăn và nước uống cho chim bồ câu phải sạch sẽ.
Trong giai đoạn này, ngoài bệnh Newcastle, chim non có thể nhiễm các bệnh như: thương hàn, E.coli, tụ huyết trùng và bệnh đậu gà. Vì vậy, anh và bà con cần chú ý theo dõi thường xuyên chim non để phát hiện bệnh và phòng trị kịp thời.     
- Với chim bố mẹ: tiêm vắc xin phòng bệnh Newcastle từ 1-2 lần/ năm.
- Vệ sinh chuồng trại sạch sẽ. Nên định kỳ 1 tháng dọn dẹp làm vệ sinh chuồng 2 lần, sửa chữa và làm mới chỗ hư hỏng, cạo sạch phân, thay ổ đẻ, phun thuốc sát trùng chuồng.
- Hàng ngày nên vệ sinh máng ăn, máng uống để tránh cho chim bồ câu uống phải nước bẩn, nước đã lên men do cặn thức ăn đọng lại trong máng.
- Ngoài ra, cần chu ý: lồng vận chuyển chim bồ câu cũng là nguồn lây nhiễm bệnh, vì ở chuồng có chim bồ câu bị bệnh và chết thì dễ dàng lây nhiễm bệnh sang chuồng khác. Vì thế lồng khi dùng để vận chuyển chim mới cần phải được lau rửa sát trùng cẩn thận.
- Hạn chế cho chim lạ vào chuồng.
- Tránh để phân chim vương vãi ra mọi nơi. 
- Phòng tránh chuột, mèo, chó… tấn công chim.
5. Thức ăn cho chim.
a.Các loại thức ăn thường sử dụng nuôi chim
 Thông thường chim ăn trực tiếp các loại hạt thực vật: đỗ, ngô, thóc, gạo… và một lượng cần thiết thức ăn đã gia công chứa nhiều chất khoáng và vitamin.
 + Đỗ bao gồm: đỗ xanh, đỗ đen, đỗ tương,…Riêng đỗ tương hàm lượng chất béo nhiều nên cho ăn ít hơn và phải được rang trước khi cho chim ăn.
 + Thức ăn cơ sở: thóc, ngô, gạo, cao lương,..trong đó ngô là thành phần chính của khẩu phần. Yêu cầu của thức ăn phải đảm bảo sạch, chất lượng tốt, không mốc, mọt.
 Chim bồ câu cần một lượng nhất định các hạt sỏi, giúp cho chim trong quá trình tiêu hoá của dạ dày (mề). Kích cỡ của các hạt: dài 0,5-0,8mm, đường kính 0,3-0,4mm. Vì vậy nên để sỏi vào máng dành riêng đựng thức ăn bổ sung cho chim ăn (trộn cùng với muối ăn và khoáng Premix).
 b.Cách phối trộn thức ăn
 Thức ăn bổ sung (chứa vào máng ăn riêng): Khoáng Premix: 85%; NaCl: 5%; Sỏi: 10%. Có thể tự chế biến thức ăn bổ sung như sau:
- Vỏ sò, ốc đốt cháy + xỉ than tất cả giã nhỏ, trộn thêm muối, đất đỏ cho vào khay riêng để chim ăn tự nhiên.(Tỷ lệ: vỏ sò, ốc đốt cháy + xỉ than tất cả giã nhỏ: 50%, muối ăn: 5%, đất đỏ: 20%, Cát vàng: 15%)
Thông thường lượng hạt đậu đỗ từ 25-30%; ngô và thóc gạo: 75-75%. Bổ sung liên tục trong máng cho chim ăn tự do.
 Tuy nhiên hỗn hợp được trộn nên dùng với một lượng vừa phải. Không nên để thức ăn bổ sung quá nhiều trong một thời gian dài gây biến chất các thành phần có trong hỗn hợp.
 Khi phối trộn thức ăn, càng nhiều thành phần càng tốt, đảm bảo đủ chất lượng và bổ sung hỗ trợ cho nhau đạt hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, nguyên liệu khác nhau cách phối hợp cũng khác nhau, thông thường lượng hạt đậu đỗ từ 25-30%; ngô và thóc gạo 75-75%.
 c.Cách cho ăn
- Thời gian: 2 lần trong ngày buổi sáng lúc 8-9h, buổi chiều lúc 14-15 h, nên cho ăn vào một thời gian cố định trong ngày.
 - Định lượng: Tuỳ theo từng loại chim mà chúng ta cho ăn với số lượng thức ăn khác nhau, thông thường lượng thức ăn= 1/10 trọng lượng cơ thể:
- Chim 2-5 tháng tuổi: 40-50g thức ăn/con/ngày:
- Chim sinh sản: (6 tháng tuổi trở đi)
+ Khi nuôi con: 125-130g thức ăn/đôi/ngày
+ Không nuôi con: 90-100g thức ăn/đôi/ngày
 d. Nước uống
Nhu cầu nước uống của chim bồ câu không lớn, nhưng cần có đủ nước để chim uống tự do. Nước phải sạch sẽ, không màu, không mùi và phải thay hằng ngày.
 Có thể bổ sung vào trong nước Vitamin và kháng sinh để phòng bệnh khi cần thiết, trung bình mỗi chim bồ câu cần 50-90ml/ngày.
Chương III: Nuôi bồ câu thả tự nhiên
Là phương thức chăn nuôi bồ câu phổ biến nhất ở nước ta cũng như ở nhiều nước trên thế giới. Ưu điểm nổi bật của phương thức này là tận dụng được khả năng bay xa, nhớ đường, tìm kiếm thức ăn của bồ câu. Theo phương thức này, mỗi hộ nông dân nuôi từ vài đôi tới vài chục đôi chim sinh sản, làm chuồng trên cột hoặc trên lan can với thức ăn hạn chế. Cũng có khi, người ta nuôi đàn chim lớn tới hàng ngàn con, với chuồng nuôi quy mô lớn và chăn thả hoàn toàn. Chim sẽ tự tìm kiếm thức ăn là chính. Với khả năng bay xa, quan sát giỏi, chúng sẽ tìm thức ăn ở những cánh đồng lúa, ngô, lạc, đậu¼ với phương châm "mùa nào thức đó", có thể xa hàng trăm kilomet. Khám diều các chim này, người ta thấy thức ăn chúng kiếm được là rất đa dạng và phong phú. Người chăn nuôi chỉ bổ sung một lượng thức ăn hạn chế, chủ yếu là trong thời kỳ "giáp hạt" mà thôi. Do tiết kiệm được thức ăn nên chi phí thấp, hiệu quả chăn nuôi cao. Tuy nhiên, hiện nay, khi mà nhiều loại dịch bệnh đang lây lan nhanh và nguy hiểm như cúm gia cầm H5N1; cúm A - H1N1¼ thì phương thức trên không được khuyến khích nữa. Người ta lo ngại, chính những đàn bồ câu chăn thả tự do sẽ là nguồn lây lan các bệnh nguy hiểm.
1. Chuồng nuôi.
a. Chuồng áp tường

Hình 3.1: Chuồng bồ câu áp tường
Đây là loại chuồng dùng để nuôi chim quy mô nhỏ, tận dụng, chi phí thấp. Đối với giống chim có tầm vóc trung bình (như chim nội) thì kích thước chuồng có thể như sau: chiều rộng 67cm, chiều sâu 45 - 51 cm và chiều cao 41 cm là đủ cho 1 cặp chim. Người ta gọi đó là một "căn hộ chim". Ở phía trước căn hộ này, có một hành lang cho chim đậu và đi lại, rộng 20 cm theo suốt chiều dài của chuồng; "hành lang" này đồng thời làm bãi cho chim ăn. Người ta bố trí một mảnh lưới trước mặt chuồng để khống chế chim mới và có thể tháo bỏ ra lúc chim đã hoàn toàn quen chuồng. Khi thời tiết xấu, có thể dùng mảnh lưới này để nhốt chim ở phía trong.
Khi một đôi chim mới trưởng thành, chúng sẽ đòi hỏi ngăn chuồng riêng để được sống độc lập, nếu chúng không đòi hỏi thì bố mẹ chúng cũng sẽ đuổi ra khỏi chuồng cũ, vì vậy, cần giữ lại một số ngăn chuồng trống cho nhu cầu trên để tách đàn.
Ở phía trong chuồng nên sơn màu đậm vì chim thích đẻ trong bóng tối. Để có thể giữ vệ sinh tốt cho chuồng, đáy chuồng có thể tháo lắp được và nên hơi cao hơn "hành lang" khoảng 2 cm, để khi trời mưa, nước không chảy vào phía trong, làm ướt đáy chuồng.
Mái chuồng có thể làm bằng tôn kẽm, nhưng để đỡ nóng, nên phủ giấy dầu lên trên và có trần bằng ván ép..
b. Chuồng trên cột đỡ
Đây là kiểu chuồng phổ biến trong các nông hộ chăn nuôi quảng canh, ở độ cao thích hợp, phù hợp với đặc điểm sinh lý của chim, ít bị ẩm ướt và cách ly tốt. Nhược điểm của loại chuồng này là do chuồng đặt trên trụ cao nên chăm sóc, quản lý không thuận lợi, chuồng bị phơi nắng, hứng mưa nhiều; gây bất lợi cho cuộc sống của chim. Mặt khác, khi đàn chim phát triển, tăng số lượng thì khó tăng thêm ô chuồng tương ứng. Loại chuồng này cũng chỉ phù hợp với chăn nuôi trong nông hộ quy mô nhỏ.

Hình 3.2. Chuồng bồ câu trên cột và trong vườn
c. Chuồng nuôi hỗn hợp tự nhiên
Đó là kiểu chuồng đặc biệt, dùng để nuôi các đàn bồ câu cực lớn, còn được gọi là hang columbarium, từ tiếng Latin nghĩa là hang động cho bồ câu. Trong mỗi chuồng này người ta nuôi hàng ngàn đôi chim bồ câu theo phương thức tự nhiên truyền thống, tác giả cuốn sách này đã được thăm quan một số chuồng chim như vậy ở Ai Cập, trong mỗi chuồng được xây bằng gạch và đất bùn, người ta nuôi từ 3000 - 5000 đôi chim, được sử dụng phổ biến ở Trung đông, châu Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha¼
Nhìn từ xa, nhà chim có cấu trúc tương tự như một cái "lò gạch" lớn có vòm kín, có cửa ra vào. Cấu trúc đặc biệt của nhà chim là thành (tường) của "lò gạch" dày khoảng 40 cm, trên tường của nhà chim, người ta bố trí nhiều "hốc chim", hốc nọ liền kề hốc kia, khiến ta có cảm giác bức tường có cấu trúc như 1 cái tổ ong lớn. Mỗi hốc có hình dạng như một cái giỏ to, đường kính khoảng 35-40 cm, sâu khoảng 40 cm, trong lót rơm. Mỗi hốc thường có 1 đôi chim sinh sống.
Trong nhà chim có 1 hệ thống thang gỗ bắc ngang, dọc, chéo để hàng ngày người ta trèo lên, kiểm tra và thu hoạch chim ra ràng đem bán (tương tự như kiểm tra tổ chim yến ở Nha Trang nước ta vậy). Tại các chuồng này, người ta chăn thả để chim tự đi kiếm mồi là chính, chỉ bổ sung thức ăn vào lúc "giáp hạt".
Hình 3.3. Chuồng bồ câu lớn tại Ai cập, nuôi hàng ngàn đôi chim

1 nhận xét:

Góc thư giãn

Truyện vui sưu tầm: Làm ơn! Trước tiệm thuốc tây có một hàng dài người đang xếp hàng chờ đến lượt. Bỗng một chàng trai từ phía sau vừa c...